Alcaraz chiếm ngôi số 1 của Sinner, Djokovic thăng tiến (Bảng xếp hạng tennis 8/9)
(Tin thể thao, tin tennis) US Open 2025 khép lại với những biến động lớn trên bảng xếp hạng, Alcaraz trở lại ngôi số 1, Djokovic thăng tiến mạnh mẽ, trong khi Anisimova và Osaka tạo dấu ấn đặc biệt ở nội dung nữ.
⬆️ Alcaraz trở lại ngôi số 1, Djokovic thăng tiến, Aliassime tạo cú nhảy vọt
Sau khi US Open 2025 khép lại, bảng xếp hạng ATP đã chứng kiến những biến động lớn. Carlos Alcaraz chính thức trở lại ngôi số 1 thế giới sau chiến thắng trước Jannik Sinner ở chung kết, trong khi Novak Djokovic, Felix Auger-Aliassime và nhiều tay vợt khác thăng tiến mạnh.
Sinner (người đứng giữa) phải nhường ngôi số 1 cho Alcaraz (bên trái), Djokovic (bên phải) trở lại top 4
Ở chung kết kịch tính tại Flushing Meadows, Alcaraz đánh bại nhà đương kim vô địch Sinner 6-2, 3-6, 6-1, 6-4, qua đó giành Grand Slam thứ sáu trong sự nghiệp. Chiến thắng này giúp anh chấm dứt 65 tuần thống trị của Sinner để trở lại vị trí số 1 thế giới.
Đây là lần thứ 5 Alcaraz leo lên ngôi đầu, nâng tổng số tuần giữ số 1 của tay vợt người Tây Ban Nha lên con số 37. "Carlitos" hiện dẫn Sinner 760 điểm và có lợi thế lớn trong giai đoạn cuối năm khi chỉ phải bảo vệ 1.000 điểm, trong khi đối thủ người Ý phải giữ tới 2.830 điểm từ chức vô địch Thượng Hải Masters và ATP Finals năm ngoái.
Alexander Zverev vẫn giữ vững vị trí số 3, nhưng khoảng cách giữa anh và bộ đôi dẫn đầu là rất xa (thua Sinner hơn 4.800 điểm). Novak Djokovic, dù 38 tuổi vẫn chứng minh đẳng cấp khi vào tới bán kết US Open. Nhờ đó, anh tăng 3 bậc, leo lên hạng 4 thế giới và hơn Taylor Fritz (số 5) đúng 155 điểm.
Djokovic vẫn còn nhiều cơ hội để cải thiện thứ hạng trong phần còn lại của mùa giải, khi số điểm phải bảo vệ không quá nhiều so với các tay vợt đang cạnh tranh thứ hạng.
Felix Auger-Aliassime thăng tiến ấn tượng nhất top 20. Sau hành trình kỳ diệu vào tới bán kết US Open, tay vợt Canada tăng 14 bậc, từ hạng 27 lên hạng 13, trở lại nhóm đầu sau quãng thời gian sa sút. Lorenzo Musetti (+1, lên số 9) lần đầu góp mặt trong top 10 sau khi lọt tứ kết Grand Slam. Jiri Lehecka (+5, số 16) và Alexander Bublik (+5, số 19) cũng có bước nhảy đáng kể nhờ phong độ tại giải vừa qua.
Ở chiều ngược lại, Daniil Medvedev tiếp tục sa sút khi dừng bước ngay vòng 1 US Open. Hậu quả, cựu số 1 thế giới tụt 5 bậc, xuống hạng 18. Trong khi đó, Frances Tiafoe, từng vào bán kết năm 2024 mất 12 bậc, rơi khỏi tốp 20 (xếp số 29).
✨ Sabalenka giữ vững ngôi số 1, Anisimova đạt đỉnh sự nghiệp, Osaka trở lại mạnh mẽ
Trong khi Aryna Sabalenka tiếp tục thống trị vị trí số 1 thế giới nhờ bảo vệ thành công danh hiệu Grand Slam ở New York, Amanda Anisimova lần đầu tiên vươn lên hạng 4 thế giới, còn Naomi Osaka gây tiếng vang lớn với sự trở lại trong top 15.
Sabalenka, Anisimova và Osaka (từ trái sang) có những thành công lớn khi US Open 2025 khép lại
Áp lực trước US Open là không nhỏ khi cả Iga Swiatek và Coco Gauff đều có cơ hội soán ngôi, nhưng Sabalenka đã chứng minh bản lĩnh. Tay vợt 27 tuổi xuất sắc bảo vệ danh hiệu tại Flushing Meadows, qua đó nâng tổng số Grand Slam đơn lên con số 4.
Chiến thắng này giúp Sabalenka duy trì ngôi số 1 thế giới tuần thứ 55 liên tiếp, với 11.225 điểm, bỏ xa Swiatek (7.933) và Gauff (7.874). Cả hai đối thủ bám đuổi cũng tái hiện thành tích như năm ngoái (Swiatek dừng tứ kết, Gauff dừng vòng 4), nên khoảng cách trên BXH hầu như không đổi.
Người tạo dấu ấn rõ rệt nhất là Anisimova. Với lần thứ hai liên tiếp lọt vào chung kết Grand Slam, tay vợt 24 tuổi người Mỹ vươn từ hạng 9 lên số 4 thế giới, thứ hạng cao nhất sự nghiệp, vượt qua kỷ lục cũ (hạng 7, tháng 7/2023).
Đây là bước tiến lớn, khẳng định Anisimova đã trở thành một phần không thể thiếu trong nhóm ứng cử viên hàng đầu cho các danh hiệu lớn.
US Open cũng đánh dấu sự hồi sinh của Naomi Osaka. Từng vắng bóng dài hạn vì lý do cá nhân và chấn thương, cựu số 1 thế giới đã vào tới bán kết, qua đó tăng 10 bậc, lên hạng 14. Đây là thứ hạng cao nhất của cô kể từ tháng 1/2022.
Trong khi đó, Jessica Pegula (-3, xuống số 7) và Zheng Qinwen (-2, số 9) đồng loạt tụt hạng vì không thể tái lập thành tích của mùa trước. Paula Badosa (-4, số 20) tiếp tục lao dốc do chấn thương.
Bảng xếp hạng tennis đơn Nam - ATP
TT |
Tay vợt |
Tuổi |
+-XH so với tuần trước |
+/- sau US Open |
Điểm |
1 |
Carlos Alcaraz (Tây Ban Nha) |
22 |
+1 |
+1950 |
11.540 |
2 |
Jannik Sinner (Ý) |
24 |
-1 |
-700 |
10.780 |
3 |
Alexander Zverev (Đức) |
28 |
0 |
-300 |
5.930 |
4 |
Novak Djokovic (Serbia) |
38 |
+3 |
+700 |
4.830 |
5 |
Taylor Fritz (Mỹ) |
27 |
-1 |
-900 |
4.675 |
6 |
Ben Shelton (Mỹ) |
22 |
0 |
0 |
4.280 |
7 |
Jack Draper (Anh) |
23 |
-2 |
-750 |
3.690 |
8 |
Alex de Minaur (Úc) |
26 |
0 |
0 |
3.545 |
9 |
Lorenzo Musetti (Ý) |
23 |
+1 |
+300 |
3.505 |
10 |
Karen Khachanov (Nga) |
29 |
-1 |
+40 |
3.280 |
11 |
Holger Rune (Đan Mạch) |
22 |
0 |
+40 |
3.090 |
12 |
Casper Ruud (Na Uy) |
26 |
0 |
-150 |
2.755 |
13 |
Felix Auger-Aliassime (Canada) |
25 |
+14 |
+790 |
2.755 |
14 |
Andrey Rublev (Nga) |
27 |
+1 |
0 |
2.610 |
15 |
Tommy Paul (Mỹ) |
28 |
-1 |
-100 |
2.510 |
16 |
Jiri Lehecka (Cộng hòa Séc) |
23 |
+5 |
+300 |
2.415 |
17 |
Jakub Mensik (Cộng hòa Séc) |
20 |
-1 |
-50 |
2.380 |
18 |
Daniil Medvedev (Nga) |
29 |
-5 |
-390 |
2.370 |
19 |
Alexander Bublik (Kazakhstan) |
28 |
+5 |
+190 |
2.245 |
20 |
Alejandro Davidovich Fokina (Tây Ban Nha) |
26 |
-2 |
+40 |
2.225 |
21 |
Francisco Cerundolo (Argentina) |
27 |
-2 |
0 |
2.135 |
22 |
Tomas Machac (Cộng hòa Séc) |
24 |
0 |
0 |
2.110 |
23 |
Arthur Fils (Pháp) |
21 |
-3 |
-50 |
2.070 |
24 |
Ugo Humbert (Pháp) |
27 |
-1 |
-40 |
2.045 |
25 |
Flavio Cobolli (Ý) |
23 |
+1 |
0 |
2.040 |
26 |
Denis Shapovalov (Canada) |
26 |
+3 |
+90 |
1.838 |
27 |
Stefanos Tsitsipas (Hy Lạp) |
27 |
+1 |
+40 |
1.830 |
28 |
Grigor Dimitrov (Bulgaria) |
34 |
-3 |
-400 |
1.645 |
29 |
Frances Tiafoe (Mỹ) |
27 |
-12 |
-700 |
1.640 |
30 |
Luciano Darderi (Ý) |
23 |
+4 |
+205 |
1.584 |
... |
|||||
42 |
Joao Fonseca (Brazil) |
19 |
+3 |
+34 |
1.129 |
... |
|||||
49 |
Learner Tien (Mỹ) |
19 |
+1 |
+10 |
1.010 |
Bảng xếp hạng tennis đơn Nữ - WTA
TT |
Tay vợt |
Tuổi |
+-XH so với tuần trước |
+/- sau US Open |
Điểm |
1 |
Aryna Sabalenka (Belarus) |
27 |
0 |
0 |
11.225 |
2 |
Iga Swiatek (Ba Lan) |
24 |
0 |
0 |
7.933 |
3 |
Coco Gauff (Mỹ) |
21 |
0 |
0 |
7.874 |
4 |
Amanda Anisimova (Mỹ) |
24 |
+5 |
+1290 |
5.159 |
5 |
Mirra Andreeva (Nga) |
18 |
0 |
+60 |
4.793 |
6 |
Madison Keys (Mỹ) |
30 |
0 |
-120 |
4.579 |
7 |
Jessica Pegula (Mỹ) |
31 |
-3 |
-520 |
4.383 |
8 |
Jasmine Paolini (Ý) |
29 |
0 |
-110 |
4.006 |
9 |
Zheng Qinwen (Trung Quốc) |
22 |
-2 |
-430 |
4.003 |
10 |
Elena Rybakina (Kazakhstan) |
26 |
0 |
+170 |
3.833 |
11 |
Ekaterina Alexandrova (Nga) |
30 |
+1 |
+110 |
3.026 |
12 |
Clara Tauson (Đan Mạch) |
22 |
+2 |
-60 |
2.721 |
13 |
Elina Svitolina (Ukraine) |
30 |
+2 |
-120 |
2.606 |
14 |
Naomi Osaka (Nhật Bản) |
27 |
+10 |
+710 |
2.489 |
15 |
Karolina Muchova (Cộng hòa Séc) |
29 |
-2 |
-350 |
2.488 |
16 |
Daria Kasatkina (Nga) |
28 |
+2 |
+60 |
2.421 |
17 |
Belinda Bencic (Thụy Sĩ) |
28 |
+2 |
+70 |
2.334 |
18 |
Emma Navarro (Mỹ) |
24 |
-7 |
-650 |
2.310 |
19 |
Diana Shnaider (Nga) |
21 |
-2 |
-230 |
2.246 |
20 |
Paula Badosa (Tây Ban Nha) |
27 |
-4 |
-430 |
2.195 |
21 |
Liudmila Samsonova (Nga) |
26 |
-1 |
-170 |
2.049 |
22 |
Elise Mertens (Bỉ) |
29 |
-1 |
-110 |
2.019 |
23 |
Victoria Mboko (Canada) |
19 |
0 |
+7 |
1.841 |
24 |
Jelena Ostapenko (Latvia) |
28 |
+2 |
+60 |
1.780 |
25 |
Marta Kostyuk (Ukraine) |
23 |
+3 |
+110 |
1.766 |
26 |
Veronika Kudermetova (Nga) |
28 |
-1 |
0 |
1.763 |
27 |
Beatriz Haddad Maia (Brazil) |
29 |
-5 |
-190 |
1.731 |
28 |
Leylah Fernandez (Canada) |
23 |
+2 |
+120 |
1.684 |
29 |
Linda Noskova (Cộng hòa Séc) |
20 |
+3 |
+120 |
1.670 |
30 |
Magdalena Frech (Ba Lan) |
27 |
+3 |
+120 |
1.536 |
(Tin thể thao, tin tennis) Sinner chấp nhận ngậm đắng nuốt cay sau trận thua trước Alcaraz để có những cải thiện phong độ trong tương lai.
Nguồn: [Link nguồn]
-08/09/2025 14:23 PM (GMT+7)