Ô nhiễm không khí - phải 'bắt đúng bệnh' trước khi 'chữa'
Kiểm kê khí thải là khâu then chốt để xác định đúng nguồn ô nhiễm, từ đó lựa chọn giải pháp xử lý trúng đích, tránh làm dàn trải, theo PGS Hoàng Anh Lê.
Hiện nay các báo cáo về ô nhiễm không khí đưa ra kết quả khác nhau khiến cơ quan quản lý thiếu căn cứ để điều chỉnh chính sách, nhà khoa học thiếu công cụ để nghiên cứu. PGS.TS Hoàng Anh Lê, Trưởng bộ môn Quản lý môi trường, Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) trả lời VnExpress về vấn đề này.
- Cục Môi trường từng công bố khí thải phương tiện giao thông chiếm 15% ô nhiễm không khí ở Hà Nội, nhưng Hà Nội từng đưa ra tỷ lệ tới 56%. Vì sao có sự khác biệt quá lớn như vậy?
- Tôi cho rằng có bốn nguyên nhân chính dẫn đến sự khác nhau này. Đầu tiên là thời điểm báo cáo khác nhau. Xe máy, ôtô ở Hà Nội mỗi năm tăng mạnh thì rõ ràng số liệu sẽ khác. Hai là phương pháp nghiên cứu khác nhau, có cơ quan quốc tế dùng cách lấy mẫu bụi, phân tích thành phần hóa học rồi truy ngược nguồn. Trong khi các nhóm trong nước dùng cách tính mức phát thải bằng dữ liệu hoạt động (số phương tiện, sản lượng, năng lượng tiêu thụ) nhân với hệ số phát thải.
Thứ ba là Việt Nam thiếu hệ số phát thải, tức chỉ số đo lường lượng khí thải được sinh ra trên một đơn vị hoạt động cụ thể. Chúng ta chưa có bộ dữ liệu riêng, phải dùng số liệu quốc tế. Cái này giống như lấy chỉ số y tế của châu Âu áp vào người Việt, tất nhiên sẽ không chuẩn.
Thứ tư là phạm vi kiểm kê không đồng nhất. Có nhóm chỉ làm giao thông, có nhóm chỉ tập trung nông nghiệp, xây dựng, hay công nghiệp. Khi ghép lại, con số không thể so sánh trực tiếp, dẫn đến chênh lệch. Đó là lý do có báo cáo nói giao thông chiếm 30%, có báo cáo chỉ 15%. Tất cả đều có cơ sở, nhưng thiếu một chương trình đồng bộ thì khó có kết quả thống nhất.
Quan trọng nhất tôi cho rằng không cần tranh cãi nguồn nào nhiều hơn mà chỉ cần biết các nguồn chính để tập trung kiểm soát. Ô nhiễm không khí ở Hà Nội có hai nguồn chính, thứ nhất là nguồn bên ngoài. Hà Nội không trồng lúa trong nội đô nhưng khi nông dân các tỉnh xung quanh đốt rơm rạ, chất ô nhiễm theo gió, theo điều kiện khí tượng bay vào trung tâm thành phố. Đây gọi là ô nhiễm xuyên biên giới địa phương. Nguồn này rất khó kiểm soát nên thế giới mới phải hình thành hợp tác liên vùng, liên quốc gia.
Thứ hai là nguồn tại chỗ, tức là giao thông, công nghiệp, xây dựng và hoạt động đốt như đốt rơm rạ, phế phẩm nông nghiệp, rác sinh hoạt. Nguồn này chúng ta phải tập trung quản lý.
PGS.TS Hoàng Anh Lê. Ảnh: Gia Chính
- Làm thế nào để có bộ dữ liệu đầy đủ, chuẩn xác để cơ quan quản lý dựa vào đó đưa ra giải pháp xử lý ô nhiễm không khí hiệu quả?
- Chúng ta phải kiểm kê khí thải, tức xây dựng danh mục nguồn ô nhiễm không khí và lượng phát thải các chất ô nhiễm từ nguồn thải trong một vùng địa lý và một khoảng thời gian nhất định. Hoạt động này giúp tuân thủ pháp luật, đánh giá hiệu quả sản xuất, sinh hoạt nhằm xây dựng chiến lược giảm phát thải, xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững.
Kiểm kê khí thải là gốc rễ của quản lý môi trường không khí. Nếu coi việc xử lý ô nhiễm là "chữa bệnh" thì kiểm kê được xem như "chẩn đoán" để tìm đúng căn bệnh, từ đó giúp chúng ta có phương thuốc hữu hiệu "chữa bệnh". Không biết chính xác ô nhiễm do nguồn nào, từ đâu mà ra thì khó có thể quản lý, duy trì và nâng cao được chất lượng không khí.
Các nước phát triển đã kiểm kê khí thải từ sớm. Đức bắt đầu từ năm 1990, sau đó lan ra toàn châu Âu và Mỹ. Tôi từng học ở Hàn Quốc giai đoạn 2008-2011, thấy họ làm rất bài bản. Khi về nước, tôi đề xuất với Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhưng khi đó chúng ta thiếu nhân lực, kinh phí cũng như chưa thấy hết tầm quan trọng nên chưa triển khai.
- Đến nay việc kiểm kê khí thải ở Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng đã triển khai như thế nào?
- Cuối năm 2014, các đơn vị của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Nông nghiệp và Môi trường) đã xây dựng thông tư hướng dẫn kiểm kê khí thải công nghiệp. Đây có lẽ là công việc, nhiệm vụ đầu tiên liên quan đến lĩnh vực. Đáng tiếc là thông tư hướng dẫn không thực sự được ban hành, vô tình làm chậm quá trình thực thi công cụ kiểm kê khí thải ở Việt Nam.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 lần đầu tiên đưa việc kiểm kê khí thải là một trong những hoạt động cần thiết để xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng không khí địa phương, quốc gia. Để triển khai luật, Thủ tướng đã ban hành chỉ thị 03 năm 2021. Bộ Nông nghiệp và Môi trường được giao chủ trì hướng dẫn kỹ thuật xây dựng Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường cấp tỉnh. Tháng 2/2024, Bộ này đã ban hành tài liệu hướng dẫn kỹ thuật kiểm kê phát thải bụi và khí thải từ nguồn thải điểm, nguồn diện và nguồn di động.
Hà Nội có một số đề tài nghiên cứu về kiểm kê khí thải, trong đó có đề tài của Bộ Nông nghiệp và Môi trường phê duyệt năm 2020. Sở Nông nghiệp và Môi trường tham mưu lập nhóm công tác, nhưng do có sự thay đổi về tổ chức và kinh phí nên chưa thực hiện được.
Giao thông là một trong số các nguồn chính gây ô nhiễm không khí. Ảnh: Hoàng Giang
- Vì sao việc kiểm kê khí thải chậm được triển khai?
- Trong công tác kiểm kê khí thải thì dữ liệu hoạt động và hệ số phát thải là hai thông số quan trọng để ước tính mức phát thải chất ô nhiễm vào môi trường không khí. Đáng tiếc là chúng ta chưa xây dựng được bộ hệ số phát thải riêng biệt, hoàn chỉnh để phục vụ công tác kiểm kê khí thải ở địa phương.
Manh mún đâu đó chúng ta có một số công trình nghiên cứu có công bố một vài hệ số phát thải cho một vài chất ô nhiễm, hạn chế cho một vài lĩnh vực, hoạt động gây ô nhiễm. Còn lại chúng ta phải vay mượn từ bộ hệ số phát thải của US.EPA - Mỹ (AP42), IPCC hoặc từ nghiên cứu của các quốc gia khác. Ví dụ, cây lúa Việt Nam khác lúa Mỹ về đặc tính nên lượng phát thải khi đốt rơm rạ cũng khác. Hay phương tiện đường thủy ở Việt Nam có nhiều loại tự chế, không đăng kiểm, gắn máy nổ nhỏ, thế giới không có dữ liệu.
Vì thế các công bố của chúng ta về số liệu kiểm kê khí thải còn có sự sai lệch, chưa đầy đủ lĩnh vực hoạt động gây ô nhiễm môi trường. Điều đó có thể chấp nhận được ở giai đoạn ban đầu và mang tính kế thừa. Tuy nhiên, về lâu dài chúng ta cần công bố về bộ hệ số phát thải của riêng Việt Nam cũng như khung chương trình pháp lý đầy đủ để kiểm kê khí thải một cách sâu, rộng, đầy đủ trên phạm vi toàn quốc.
Trạm quan trắc chất lượng không khí ở Hà Nội. Ảnh: Gia Chính
- Theo ông, Hà Nội cần làm gì để có chương trình kiểm kê khí thải tin cậy, đồng bộ?
- Đầu tiên cần xác định kiểm kê khí thải là nhiệm vụ chung của toàn quốc, không riêng gì TP Hà Nội. Từ đó, chúng ta cần một chương trình thống nhất trên cả nước như cùng danh mục nguồn, cùng phương pháp, cùng năm cơ sở. Nếu nơi làm 2019, nơi 2023 thì rất khó so sánh.
Thứ hai, cần xây dựng hệ số phát thải quốc gia cho từng loại nguồn thải. Không có dữ liệu riêng, mọi kiểm kê đều thiếu chính xác.
Thứ ba, cần có cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa các ngành, lĩnh vực quản lý nhằm tiết kiệm thời gian, tránh chồng chéo, lãng phí nhân lực, nguồn lực tài chính. Ngoài ra, chúng ta cần đẩy mạnh các ứng dụng công nghệ AI trong kiểm kê khí thải và các nhiệm vụ khác trong quản lý chất lượng môi trường.
Một địa phương hoàn toàn có thể hoàn thành kiểm kê trong vòng một năm nếu có đủ kinh phí và sự phối hợp. Quan trọng là phải coi đây là nền tảng. Khi có số liệu tin cậy, chúng ta mới trả lời chính xác câu hỏi ô nhiễm cái gì, mức ô nhiễm nội tại như thế nào và cần tập trung giám sát, kiểm soát từ đâu.
Nguồn: [Link nguồn]
-08/12/2025 00:00 AM (GMT+7)


