Khoa thi... thất thủ kinh đô

Khoa thi hội năm Ất Dậu 1885 dù đã chấm xong, chọn được người đỗ tiến sĩ, nhưng triều đình chưa kịp truyền lô xướng danh thì xảy ra sự biến thất thủ kinh đô. Sĩ tử người thì theo ngọn cờ Cần Vương, kẻ xiêu tán, người về quê tiếp tục dùi mài kinh sử chờ kỳ thi sau hầu mong đỗ đạt báo đền đất nước.

...Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu (tức tháng 7-1885), triều đình Huế do tướng quân Tôn Thất Thuyết chủ chiến đã ra lệnh nổ súng vào tòa khâm sứ Pháp ở bờ nam sông Hương và khu Mang Cá lớn ở góc bắc kinh thành Huế, nhằm đánh úp quân Pháp, giành lại quyền tự chủ đất nước. Đến sáng hôm sau, quân Pháp phản công dữ dội. Vua quan nhà Nguyễn không kháng cự nổi, kinh đô thất thủ, quân lính và dân Huế chết la liệt. Vua Hàm Nghi rời kinh thành, xuất bôn hạ chiếu Cần Vương để kháng chiến chống Pháp.

Tiến sĩ thời loạn lạc

137 năm đã trôi qua nhưng câu chuyện vẫn như mới hôm qua. Lời kể của ông Trần Đạo Thảo, cháu nội cụ Trần Đạo Tiềm, người lẽ ra đã được xướng danh đỗ đầu tại khoa thi hội năm đó. “Nghe kể ngày xưa cụ rất hay chữ, sáng dạ và chăm học, từng ba lần thi tiến sĩ. Ở kỳ thi năm Ất Dậu 1885, cụ đỗ cao nhất nhưng kinh thành thất thủ chưa kịp tổ chức truyền lô để vinh quy bái tổ. Cụ đành bỏ về quê (ở làng Đông Lâm, xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế)” - ông Thảo kể.

Theo quy định của triều Nguyễn, khoa thi cho dù đã chấm xong, xác định người đỗ đầu, đỗ thứ (đều tương đương học vị tiến sĩ) nhưng chưa tổ chức truyền lô xướng danh tiến sĩ thì vẫn chưa được công nhận đỗ đạt.

Cụ Trần Đạo Tiềm trước đó đã đỗ cử nhân tại khoa thi năm Mậu Dần (1878) dưới thời Tự Đức, lúc ông tròn 18 tuổi. Hai năm sau, tại khoa thi hội Canh Tý (1880), ông đã đậu phó bảng, được vào thi đình nhưng lại viết sót chữ nên bị truất xuống còn học vị cử nhân. Đến thời Hàm Nghi, triều đình mở khoa thi hội vào ngày 15 tháng 5 năm Ất Dậu 1885, ông lại lên kinh ứng thí. Kết quả tưởng đã nắm chắc trong tay bởi trong danh sách 13 vị đỗ năm ấy, thí sinh Trần Đạo Tiềm đỗ đầu, tức trúng cách, tương đương tiến sĩ, chỉ chờ truyền lô. Chẳng ngờ xảy ra sự biến.

Là một trong số 12 người đỗ phó trúng cách năm ấy, phó bảng thượng thư Nguyễn Văn Mại (tác giả sách VN phong sử) đã thuật lại cái ngày loạn lạc cũng đồng thời lúc công bố kết quả trong Lô Giang tiểu sử - cuốn sách chưa chính thức xuất bản của ông. Sáng 22 tháng 5 (âm lịch), Nguyễn Văn Mại cùng đồng môn Trần Đạo Tiềm đến Bộ Lễ chờ xem kết quả thi. Kinh thành hôm đó ban lệnh giới nghiêm, người qua đường chỉ lặng lẽ nhìn nhau không dám nói điều gì. Ở khắp kinh thành, từ đồn Mang Cá cho đến khu Lục bộ (khu nhà của sáu bộ thuộc nội các triều Nguyễn), hai bên các tuyến đường đều được đào hào công sự. Quân lính của triều đình trang bị gươm đao, súng ống trong thế sẵn sàng chiến đấu. Trước các trại lính, người ta chất đầy những thùng chứa cột cây chuối để phòng bị. Những đống trái bàng và mù u chất đầy khu vực quanh đồn Mang Cá nhằm bẫy quân Pháp trượt chân té ngã. Người dân lẫn các quan viên trong Thành nội lục tục di dời vợ con, di chuyển của cải về quê.

Nguyễn Văn Mại viết: “Anh Trần Ðạo Tiềm nói với ta rằng: “Xưa ông Văn Thiên Tường bái tướng (một anh hùng khí phách đời Tống trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông của Trung Hoa - PV), khi thế nước đã nguy vong mà thân gánh nặng 300 năm cơ nghiệp nhà Tống. Chúng ta đăng khoa ngày nay cũng là một sự bất hạnh vậy”. Nói rồi dắt tay nhau về quê. Vào khoảng 8 giờ đêm hôm ấy bỗng nghe tiếng súng như sấm, ngó qua phía đông kinh thành lửa sáng ngập trời, đến 4 giờ sáng chỉ nghe súng tay liên tiếp như pháo nổ. Vua Hàm Nghi xuất bôn!”.

Mãi cho đến bốn năm sau, khoa thi hội dưới triều đình Thành Thái đã chọn được 15 người cho vào thi đình. Tám trong số 13 người đỗ trong năm Ất Dậu chưa kịp truyền lô được triều đình “đặc cách” cho dự thi đình. Trần Đạo Tiềm có trong danh sách ấy. Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ. Có bằng tiến sĩ, ông được bổ nhiệm làm quan tri phủ Hoài Nhơn (Bình Định) trong một thời gian ngắn, rồi chuyển về kinh đô làm việc tại trường Quốc Tử Giám. Sau khi vua Thành Thái bị truất phế năm 1907, ông rất phẫn nộ và xin rút khỏi quan trường, bỏ về quê uống rượu giải sầu cho đến cuối đời. Trong thời gian dạy học của mình, Trần Đạo Tiềm để lại rất nhiều câu chuyện thể hiện sự tận tâm, tận lực với học trò, xem học trò như con cháu trong nhà. Sau này khi qua đời, 22 học trò đã cúng ba sào đất để xây mộ, lập bia cụ ở quê nhà Đông Lâm.

Khoa thi... thất thủ kinh đô - 1

Ông Trần Đạo Thảo và Trần Đạo Phong, cháu cụ Trần Đạo Tiềm, bên tấm bia ghi danh tiến sĩ khoa thi năm 1889 tại Văn Miếu (Huế)

Chính sách thi thời loạn

Sau sự biến kinh đô thất thủ, nhiều địa phương trong cả nước nổi dậy đấu tranh, sĩ tử các vùng miền hưởng ứng phong trào Cần Vương chống đối triều đình Đồng Khánh cũng như quân Pháp. Tháng 8 - 1886, vua Đồng Khánh cho phép gộp chung hai trường thi Hà Nội và Nam Định thành một ở Nam Định. Kinh lược sứ Nguyễn Trọng Hợp đã đề nghị và được triều đình chuẩn y cấm toàn bộ cử nhân và tiến sĩ ở khu vực Bắc kỳ không được tập trung hoặc lai vãng khu vực trường thi, vừa nhằm đảm bảo an ninh, tránh tình trạng gạ bài thí sinh, làm loạn hoặc nhiều việc phức tạp khác.

Dù thi tại một trường nhưng thí sinh và tổ chức trường thi vẫn được phân thành hai bộ phận riêng biệt, kể cả khuôn dấu lẫn các học quan. Quyển thi của thí sinh trường Hà Nội được đóng dấu son, còn của thí sinh trường Nam Định đóng dấu chàm. Hai hội đồng chấm thi riêng và không được giao thiệp với nhau. Các quan viên cấp nhỏ lo từ phúc khảo, sơ khảo trở xuống thì chọn những người có học ở Bắc kỳ. Các quan viên từ phân khảo trở lên do Bộ Lễ chọn từ kinh đô Huế rồi triều đình phái ra. Hồi đó đường bộ từ Quảng Bình trở ra Nghệ An chưa thông do loạn lạc, triều đình cho đi bằng tàu thủy. Khoa thi hương này sau đó được tổ chức thi gộp sĩ tử Hà Nội, Nam Định và cả Ninh Bình lấy đậu 74 người.

Tình trạng tẩy chay kỳ thi lan truyền trong giới nho học, nhiều trường thi vì quá ít thí sinh không thể tổ chức được phải liên tục đình hoãn. Để tạo điều kiện dễ dàng cho thí sinh, vào tháng 10-1886 triều đình Đồng Khánh đã đề ra chính sách khá đặc biệt: cho phép thí sinh tất cả các tỉnh, kể cả kinh kỳ, đến đăng ký dự phiên sát hạch tại các vị học quan của trường thi ở nơi họ tạm trú, thay cho quy định chỉ sát hạch tại nơi ở chính của mình. Sách Đại Nam thực lục ghi lý do: “Lại năm gần đây có loạn, học trò phần nhiều tản đi ngụ ở các nơi, nếu đến kỳ khoa thi trở về không tiện, nghĩ xin như có người nào tình nguyện đi thi, đến nộp đơn ở học thần sở tại để vừa rộng cách gia ân, học trò lại được yên định”...

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc quyết tâm mở khoa thi trong thời kỳ loạn lạc cũng nhằm tạo tâm lý ổn định xã hội, góp phần thu phục lòng người vốn bất an.

--------------------------------------------------

Phạm hai chữ húy, Đặng Huy Trứ mất cả tiến sĩ lẫn cử nhân. Sửa bài thi, Cao Bá Quát suýt mất mạng.

Kỳ tới: Án nạn trường thi

Chia sẻ
Gửi góp ý
Theo Thái Lộc (Tuổi trẻ)
Lều chõng ngày xưa Xem thêm
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN