Xóm "cao bồi" trên đồi vắng
Quốc lộ 25 đoạn qua đèo Chư Sê thuộc xã HBông (huyện Chư Sê, Gia Lai) có một khu dân cư nhỏ được mệnh danh là xóm chăn bò hay xóm “cao bồi”.
Người ta gọi như thế là vì dân ở đấy hầu hết đều chăn bò thuê, có nhà nhận đến cả trăm đầu bò. Chỉ cần đi ngang qua, dù nhắm mắt cũng nhận ra bởi cái mùi ngai ngái khen khét của mồ hôi cùng phân bò vương khắp một đoạn đường dài.
Rah Mah Tih đang dắt bò ngoài bãi chăn đồng thời trông các em.
Đời “cao bồi”
Gọi là xóm cho oai chứ thực ra nhà ở đây thưa thớt, phần lớn là tạm bợ. Cạnh nhà thường có những cái chuồng và những đống phân bò to tướng. Dân ở đây phần đông là đồng bào J’rai bản địa, số còn lại đều đến từ các tỉnh miền Trung chung hoàn cảnh nghèo, không nghề nghiệp. Họ nhận và gắn với nghiệp chăn bò thuê vì miếng cơm manh áo.
Men theo con đường nhỏ đầy dấu chân và phân bò, chúng tôi đến nhà vợ chồng lão cao bồi mù Nguyễn Văn Lo (sinh năm 1962), cùng vợ Nguyễn Thị Hiển (sinh năm 1964), làng Ring II. Nhà thực chất chỉ là một căn lều tôn dựng tạm, mỗi khi có cơn gió thoảng qua thì những tấm tôn cạ vào nhau nghe ken két đến rợn tai.
Căn lều chỉ chừng hơn 20m2 trống huơ trống hoác, ấy vậy mà có đến 5 con người (vợ chồng ông Lo và 3 người con trai) chen chúc sống trong đó nhiều năm nay chống chọi với mùa nắng thì nực, mùa mưa thì dột nên thường co ro trong chiếc chăn mỏng. Phía sau nhà là một cái chuồng lớn, là nơi nhốt 60 con bò gia đình ông Lo nhận chăn thuê.
Châm đỏ điếu thuốc, ông Lo kể về gia đình mình: Năm 2004, gia đình tôi dắt díu nhau rời xã Bình Thành (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) với hành trang ba không (không vốn, không nghề nghiệp, không trình độ) lên làng Ring II nhận chăn bò thuê cho đại gia Phúc (trú huyện Phú Thiện, Gia Lai). Tôi thì mù lòa, bà vợ thì đau ốm liên miên nên thằng con lớn Nguyễn Hữu Đăng (sinh năm 1992, trình độ 4/12) là trụ cột đứng ra nhận hợp đồng chăn 60 con bò, phụ nó là 2 đứa em song sinh cùng nó (sinh năm 1996, học chưa hết cấp I).
Hợp đồng giữa chủ bò và người chăn thuê được ký kết theo hai phương thức: Nuôi rẽ, là cứ mỗi con bò đẻ được hai con bê, chủ thu về một con; nuôi tính theo đầu bò, nghĩa là người nuôi lấy tiền chăn dắt (250.000 đồng/đầu/năm) và phân, còn bò vẫn là của chủ. Theo hợp đồng, bò chết vì dịch bệnh, thiên tai là nguyên nhân khách quan, nên nếu còn xác thì không phải đền. Vì vậy, nhiều khi người chăn bò phải luồn rừng mấy ngày liền chỉ để tìm… xác bò.
Người dân lùa đàn bò ra bãi chăn thả và đến chiều lại lùa về chuồng.
“Nói chung, nếu chịu khó thì hai vợ chồng mỗi tháng cũng có thể kiếm được hơn 6 triệu đồng để trang trải chuyện ăn uống hàng ngày và lo cho 2 cháu học hành từ phân bò. Còn tiền chăn đầu bò (chừng 20 triệu đồng/năm) coi như là của để dành cho các con đi học cao hơn trong tương lai. Anh Tuấn |
Rít vội điếu thuốc, ông Lo chậm rãi, như hiện tại đã là tốt hơn nhiều so với ở quê rồi đấy chú. Hồi ở quê, vợ và các con dù làm đủ thứ nghề không tên nhưng cuộc sống vẫn cứ mãi thiếu trước hụt sau.
Với 60 con bò nhận chăn theo phương thức khoán đầu bò, mỗi năm cũng cho thu nhập được hơn 50 triệu đồng. Nói chung, nghề này tuy cực khổ, hôi hám, thu nhập vậy cũng ổn định. Chịu khó chắt chiu thì 5 miệng ăn vẫn có thể nói là không phải lo đói.
Kể về nỗi cơ cực của nghề này, anh Đăng tiếp lời cha: Có những hôm mưa gió bão bùng nhưng chúng tôi vẫn phải luồn rừng chăn bò, chỉ sợ chúng đi lạc mất. Có lần bò lạc phải đi tìm đến mấy ngày liền. Cũng phải cố thôi chứ nếu không thì tiền đâu mà đền cho chủ. Cứ khoảng 8 giờ sáng, anh em Đăng thay phiên nhau lùa bò ra bãi chăn, đến tối khi bò no đẫy bụng mới về. Người ở nhà thì xúc phân đem ra phơi.
Cạnh nhà ông Lo là căn lều của anh Nguyễn Kim Tuấn (sinh năm 1966, quê Thừa Thiên - Huế), lúc chúng tôi qua nhà anh đang loay hoay xúc phân trong chuồng bò. Thấy chúng tôi, anh Tuấn tạm dừng công việc để tiếp chuyện. Anh Tuấn kể, ở quê, 2 vợ chồng dù làm đầu tắt mặt tối nhưng cũng chỉ đủ lấp 4 miệng ăn (2 vợ chồng và 2 con nhỏ). Năm nào mất mùa, gặp hạn hán, thiên tai lũ lụt thì luôn trong cảnh đói rét. Thế là khi nghe người quen rỉ tai về một cuộc sống dễ thở hơn nên cả gia đình quyết định Tây Nguyên tiến.
Mới đó mà gia đình anh Tuấn gắn với cái nghiệp chăn bò thuê cho ông Phúc đã được hơn chục năm trời. Theo anh Tuấn, khu vực này có hơn 6.000 con bò, với khoảng 40 trại, mỗi trại có từ 60 đến hơn 100 con, chủ yếu là bò của 2 ông Phúc và Huy. Trước đây, nghề này khá dễ dàng nhưng hiện tại việc chăn dắt rất khó khăn và cơ cực hơn nhiều. Rừng bị phá, rẫy thì thi nhau mọc lên, do đó bãi chăn thả thu hẹp lại và khan hiếm dần. Bò phải đi xa hơn nên khi về đến chuồng, lượng phân rơi rớt khá nhiều trên đường. Mà hễ sơ sẩy để bò vào rẫy người ta thì thế nào cũng bị chặt chân, chặt đuôi. Bên cạnh đó là nạn trộm cắp bò cũng xảy ra nhiều hơn và hành vi, thủ đoạn ngày càng táo tợn hơn.
Căn chòi của vợ chồng lão cao bồi mù Nguyễn Văn Lo.
Cái điều mà những cao bồi luôn canh cánh lo sợ từng rơi vào nhà lão Lo mù. Càng đen đủi là thằng con thất học của ông Lo vì không hiểu biết pháp luật nên làm cho hậu quả của vụ việc nặng nề hơn. Theo lời kể, cách đây 5 năm, bò nhà lão Lo vào vườn tiêu. Chủ rẫy xách dao rượt bò. Nghe vậy, Đăng cầm dao đi nói chuyện với chủ rẫy và hậu quả làm cho 2 người bị thương, tổn hại tổng cộng 27% sức khỏe. Với tội danh “cố ý gây thương tích”, Đăng đã bị tuyên phạt 24 tháng tù giam. Chính vì lý do này mà gia đình ông Lo suýt mất việc vì đại gia Phúc không muốn giao bò cho thành phần bất hảo.
Nhặt phân đổi chữ
Ban đầu, hầu hết số “cao bồi” đến từ các tỉnh miền Trung gắn với cái nghiệp chăn bò chỉ vì trang trải cuộc sống. Tuy nhiên, khi đã ổn định, họ bắt đầu có động cơ cao hơn, mơ ước “sang trọng” hơn. Họ đang cố chắt bóp tiền cho con cái học hành hòng thay đổi số phận.
Chỉ vào đống phân bò to tướng đang phơi, anh Tuấn cho biết, đây là thu nhập chính của gia đình bởi mỗi khối phân khô có giá gần cả triệu đồng. Sản phẩm này được dân trồng tiêu ở các huyện Chư Sê, Chư Pưh và người trồng cà phê khắp tỉnh Gia Lai, thậm chí bên tỉnh bạn Đăk Lăk rất ưa chuộng nên làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đấy. Thậm chí bạn hàng cứ gọi điện thoại giục hàng suốt. Nếu trời nắng thì chừng 2 ngày, các gia đình ở đây có phân xuất bán, trời mưa thì lâu hơn. Về cái mùi ngai ngái của phân bò, anh Tuấn cười cười nói, ngửi riết nên cũng quen rồi.
“Nói chung, nếu chịu khó thì hai vợ chồng mỗi tháng cũng có thể kiếm được hơn 6 triệu đồng để trang trải chuyện ăn uống hàng ngày và lo cho 2 cháu học hành từ phân bò. Còn tiền chăn đầu bò (chừng 20 triệu đồng/năm) coi như là của để dành cho các con đi học cao hơn trong tương lai. Nghề này hơi cực một chút nhưng cho thu nhập cũng tốt. Ở quê làm gì kiếm được việc ngon lành như vậy. Tui dự định, khi nào các con học xong, có việc làm ổn định thì sẽ nghỉ kiếm chuyện khác mà làm. Đây không thể nào là cái nghiệp gắn cả cuộc đời”, anh Tuấn bộc bạch.
Đến một bãi chăn bò, chúng tôi gặp hàng chục đứa trẻ loắt choắt người J’rai đang nô đùa. Bắt chuyện với chú bé đang loay hoay dắt bò, được biết, tên em là Rah Mah Tih, đang học lớp 4. Cứ một buổi đến trường, buổi còn lại em phụ ba mẹ đi chặn bò. Một công đôi việc, Tih đồng thời dắt theo các em để tiện trông chừng cho ba mẹ yên tâm lên rẫy. Tih kể, những ngày mùa nắng, đám bạn của Tih thường mang theo gùi để nhặt phân khô. Khi nào đống phân ở nhà đủ khối thì gọi người đến bán cũng kiếm được một số tiền kha khá để mua sách vở, quần áo…