Lý giải thói ăn chơi đầu năm của người Việt
Người Việt dành cả tháng giêng để ăn chơi, lỡ có kéo dài sang cả tháng hai, tháng ba cũng không vấn đề gì…
Thói quen ăn chơi dông dài của người Việt lâu nay đã kéo theo nhiều hệ lụy xã hội.
Vin vào tập tính để lấy cớ
Bàn về câu ca "Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè…", GS Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, nhận định đó là thói quen không còn phù hợp với xã hội hiện đại, nhưng vẫn đang kéo dài trở thành thói xấu của người Việt.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa, cơ chế nghỉ ngơi trên xuất phát từ phương thức sản xuất của xã hội nông nghiệp có từ ngàn năm trước. Trước kia người nông dân chỉ sản xuất 1 vụ, thời kỳ nông nhàn vì vậy cũng kéo dài. Đặc thù này đã quy định luôn nhịp hoạt động sinh học của con người từ thế hệ này sang thế hệ khác để lại như một thứ gene di truyền, thấm vào mỗi người thành tập tính khó thay đổi.
Chơi xuân trong những tháng đầu năm đã trở thành tập tính khó đổi của người Việt (ảnh minh họa)
“ Xưa kia, các cụ cho rằng tháng giêng là tháng ăn chơi, có kéo dài sang tháng hai, tháng ba cũng không hề gì vì nó đâu có ảnh hưởng tới sản xuất. Với nghề nông, người dân quan niệm, chậm một chút hay nhanh hơn một chút cũng không sao. Nếp suy nghĩ đó tạo hệ lụy khiến con người có ý thức tùy tiện, không có tính chuyên nghiệp trong lao động”, GS Thịnh nói.
Từ đây, GS Thịnh đưa ra so sánh: Trong khi xã hội công nghiệp người ta quý trọng từng giờ, từng phút thì người lao động mình vẫn cho phép “giờ cao su”, tới công ty chậm 1, 2 ngày, thậm chí chậm cả tuần để chơi xuân nơi quê nhà… Đối với cán bộ công chức, trong tác phong làm việc cũng xuất hiện quan niệm “chậm một chút chẳng chết ai”
“Đành rằng tập tính có từ ngàn xưa song khi đã bước vào phương thức sản xuất khác, điều kiện khác thì con người buộc phải thay đổi để thích ứng. Thái Lan cũng từng xuất thân từ nước nông nghiệp nhưng họ khắc phục được tập tính này nhanh hơn chúng ta rất nhiều.
Bất chấp quy định cấm, xe công vẫn xếp hàng tại lễ hội Yên tử (Ảnh Infonet)
Nhìn ra được điểm yếu là quan trọng, chỉ sợ người ta không chịu sửa hoặc chậm khắc phục, vin vào tập tính lấy cớ để cố duy trì, nên dễ dàng xuề xòa cho nhau.”, GS Thịnh nói.
Người thừa, ăn chơi cũng chẳng sao
Xét về khía cạnh kinh tế, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong nhận định: Việc cho Nghỉ tết dài ngày là sự cải cách linh hoạt theo hướng tích cực được người lao động hoan nghênh, xã hội ủng hộ. Đây cũng là cơ hội cho doanh nghiệp tăng thêm doanh thu từ các hoạt động kinh tế dịch vụ xã hội trong bối cảnh kinh tế èo uột.
Bảng biểu năng suất lao động của một số nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
Tuy nhiên, ông Nguyễn Minh Phong cũng không phủ nhận mặt trái khi thói quen “ăn chơi dông dài” truyền thống của người Việt đã trở thành hệ lụy xã hội.
Dẫn ra ví dụ điển hình: Mặc dù đã có quy định cấm nhưng đầu năm tình trạng cán bộ công chức vẫn bỏ giờ làm đi du xuân, lễ lạt chùa chiền, vẫn diễn ra phổ biến, TS Nguyễn Minh Phong phân tích: “Lý giải tình trạng này, có ý kiến cho rằng công việc đầu năm tại một số cơ quan nhà nước chưa tới nỗi bức xúc phải giải quyết ngay nên cán bộ nhân viên vẫn có thể tranh thủ thực hiện những chuyến đi lễ đầu năm như một quán tính của tâm linh; rồi thì người đứng đầu cơ quan vẫn chưa nghiêm túc trong việc nhắc nhở nhân viên… Tuy nhiên, nguyên nhân chính khiến cảnh cán bộ công chức dành thời gian trong giờ hành chính đi lễ đầu năm, là do xuất phát từ tình trạng thừa quá nhiều biên chế tại các cơ sở công quyền. Vắng cô thì chợ vẫn đông, vắng 1/3 nhân viên đi chùa chiền lễ lạt thì công việc ở nhà cũng vẫn chạy cơ mà”.
TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng không thể khắc phục thực trạng trên trong một sớm một chiều. “Ngoài việc tuyên truyền thay đổi nhận thức của người lao động để thấy được trách nhiệm của mình thì người lãnh đạo trong mỗi đơn vị quản lý lao động cần phải tăng cường chế tài lao động. Chẳng qua, thái độ chưa nghiêm túc trong công việc là do khâu kỷ luật chưa nghiêm, một khi đã hình thành hệ thống chế tài nghiêm minh thì người lao động chắc chắn sẽ thực hiện tốt”.
Năng suất lao động VN nằm trong nhóm thấp nhất Năm 2012, năng suất lao động ở Việt Nam dừng ở mức hơn 6.800 USD, nằm trong nhóm thấp nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Năng suất lao động ở các nền kinh tế công nghiệp cao hơn đáng kể. Năng suất của Singapore cao gấp gần 15 lần so với Việt Nam, 11 lần so với Nhật Bản và gần 10 lần so với Hàn Quốc. Ngay cả trong nhóm các nước thu nhập trung bình của ASEAN cũng có sự chênh lệch đáng kể. Ví dụ, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 1/5 so với Malaysia và 2/5 so với Thái Lan. Một xu hướng đáng chú ý là năng suất lao động của Việt Nam đang giảm. Trong giai đoạn 2002-2007, năng suất của Việt Nam tăng trung bình 5,2%/năm, đạt tốc độ nhanh nhất trong khu vực. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, năng suất hàng năm của VN chỉ tăng ở mức khiêm tốn 3,3%. Năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải thiện khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chính vì thế Việt Nam cần đưa ra các chính sách nhằm cải thiện năng suất lao động, như tăng đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ chuyển đổi nông nghiệp sang công nghiệp, hỗ trợ sáng kiến cải tiến tại nơi làm việc, đặc biệt ở doanh nghiệp vừa và nhỏ, và thúc đẩy hệ thống giáo dục đào tạo. (Ông Phú Huỳnh, chuyên gia Tổ chức lao động Thế giới) |