Phớt lờ cảnh báo siêu bão của Cuba, Mỹ trả giá đắt với gần 12.000 sinh mạng
Xem nhẹ cảnh báo bão từ Cuba, một thành phố cảng ở Mỹ - từng được kỳ vọng trở thành “New York của Vịnh Mexico” - đã phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên chết chóc nhất trong lịch sử nước Mỹ, nếu xét về số người thiệt mạng.
Video về siêu bão Galveston năm 1900. Nguồn: EHTT600
Địa thế đặc biệt
Galveston là một hòn đảo ngoài khơi bang Texas, dài khoảng 48 km, rộng từ 2,5 đến 5 km. Thành phố Galveston nằm ở phía đông đảo, và vào thời điểm đó có khoảng 38.000 dân. Điểm cao nhất trên đảo chỉ cao khoảng 2,4 m so với mực nước biển. Du khách đến Galveston thường ngạc nhiên trước sự bằng phẳng của thành phố – thấp đến mức nhìn từ xa, những con tàu trên Vịnh Mexico như đang trôi ngay trên các con phố.
Galveston nằm trong top 3 thành phố giàu nhất Mỹ vào năm 1900. Đây là một thành phố cảng thịnh vượng, nổi tiếng bởi sự xa hoa, duyên dáng và quyến rũ, với tiềm năng trở thành thành phố vĩ đại nhất ở miền Nam – còn được ví như “New York của Vịnh Mexico”. Nhưng tất cả hy vọng và ước mơ của Galveston đã tan vỡ chỉ trong một ngày.
Đảo Galveston không quá cao so với mực nước biển. Ảnh: Rosenberg Library
Coi thường cảnh báo của người Cuba
Ngày 7/9/1900 là một ngày hè bình thường tại Galveston với cái nóng và oi bức. Văn phòng trung tâm của Cục Khí tượng Mỹ (USWB, nay là Cơ quan Thời tiết Quốc gia) đưa ra cảnh báo về một cơn bão. Người đứng đầu văn phòng USWB tại Galveston là Isaac Cline. Vào thời điểm này trong năm, bão thường xuất hiện nhiều trong khu vực nên ông Isaac không quá sốt sắng khi có cảnh báo.
Thời đó, hầu như chưa ai hiểu rõ về bão. Người ta chỉ biết đến 2 cơn bão lớn từng đổ bộ vào bờ biển Texas, cả hai đều tại vịnh Matagorda (cách Galveston 240 km về phía nam). Cơn đầu tiên xảy ra mùa hè 1875, đẩy một khối nước khổng lồ sâu hơn 32 km vào đất liền từ thị trấn Indianola (bang Texas), với sức gió ước tính hơn 160 km/h. Cơn thứ hai vào năm 1886 còn tàn phá hơn, khiến dân cư thị trấn Indianola bỏ đi mãi mãi.
Theo trang Texas Historical Foundation, Galveston thậm chí còn dễ bị tổn thương hơn Indianola, vì không có đảo chắn sóng và cũng chẳng có đồng bằng ngăn cách thành phố với biển.
Thành phố Galveston năm 1899. Ảnh: Galveston and Texas History Center
Nhưng năm 1892, ông Isaac - người đứng đầu cơ quan thời tiết ở Galveston viết bài báo quả quyết rằng thành phố này sẽ không bao giờ bị bão lớn, và người dân đã đặt niềm tin vào ông. Nhưng chỉ 8 năm sau, họ đã phải trả giá.
Ngày 4/9/1900, một cơn bão ập vào Cuba. Theo trang Texas Historical Foundation, người Cuba vốn có nhiều kinh nghiệm dự báo bão hơn bất kỳ nhà khí tượng Mỹ nào khi đó. Họ dự đoán cơn bão sẽ đi vào Vịnh Mexico, mạnh lên thành cấp cuồng phong vì nước Vịnh vẫn còn rất ấm, rồi hướng thẳng đến thành phố Galveston. Nhưng thông tin này không bao giờ đến được với người dân Mỹ vì Willis Moore – lãnh đạo USWB tại Washington – đã ra lệnh cấm đưa thông tin này. Theo trang Texas Historical Foundation, ông Moore được cho là coi thường dự báo của Cuba, cho rằng chỉ các nhà dự báo Mỹ mới “khoa học” và đủ uy tín.
Dự báo của Mỹ khi đó khẳng định bão sẽ hướng sang bang Florida (Mỹ) rồi đi dọc bờ Đông. Nhưng họ đã lầm. Cơn bão đúng là đi qua bán đảo Florida Keys, nhưng rồi bất ngờ đổi hướng, lao thẳng về phía Galveston, càng lúc càng mạnh. Ông Willis thậm chí còn cấm nhân viên gọi cơn bão là “hurricane” (cuồng phong) nếu chưa có sự chấp thuận của ông.
Bài học cay đắng
Một ngôi nhà bị tàn phá trong bão Galveston năm 1900. Ảnh: Rosenberg Library
Sáng 7/9/1900, ông Isaac - người đứng đầu USWB ở Galveston - ra bãi biển để quan sát thời tiết hằng ngày. Ông nhận thấy thủy triều dâng cao bất thường, những con sóng lớn liên tục đổ vào, và gió thổi từ hướng bắc – điều cực kỳ lạ khi đó. Thông thường, gió sẽ đẩy sóng ra xa bờ, nhưng lần này lại ngược lại. Tuy nhiên, ông Isaac vẫn tin vào nhận định của chính mình trước đó rằng “Galveston không thể có bão lớn”. Sự chủ quan và cứng đầu ấy đã che mờ lý trí của ông.
Joseph Cline – em trai ông Isaac, cũng làm việc tại USWB Galveston – lại có kết luận khác. Ông nhận thấy những dấu hiệu nguy hiểm và cảnh báo rằng bão đang đến. Nhưng ông Isaac đã gạt bỏ.
Người dân lúc ấy cũng chưa hiểu về “nước dâng do bão”. Họ tin rằng thiệt hại nặng nhất của bão đến từ sức gió. Người Galveston sắp sửa nhận một bài học cay đắng.
Người dân thu dọn cạnh một ngôi nhà bị giật đổ do siêu bão ở Galveston. Ảnh: Rosenberg Library
Ngày 8/9 bắt đầu với những cơn gió mạnh. Ông Isaac tiếp tục quan sát thấy sóng dâng cao. Nếu nhận được dự báo từ Cuba, có lẽ ông đã cảnh giác hơn. Đến giữa buổi sáng, mưa bắt đầu rơi, gió mạnh dần. Khi đến văn phòng, ông Isaac thấy khí áp kế giảm mạnh. Lúc 9h sáng, khi không ai trên bờ hay biết, cơn bão Galveston (đặt theo tên nơi chịu thiệt hại nặng nhất) ở cách thành phố Galveston chỉ 80 km. Các tàu trên biển biết rằng có bão, nhưng họ không có cách nào báo tin về đất liền.
Người dân Galveston vẫn dửng dưng với thủy triều dâng, vì điều này vốn xảy ra thường xuyên. Trên đảo, một bầu không khí bình thường bao trùm.
Đến gần trưa, con đường Avenue B đã ngập tới hơn 0,6 m. Đường phố Galveston được lát đá và có lề đường cao ngang đầu gối. Lũ trẻ con thích thú chèo bè tự chế trên dòng nước. Người lớn kéo nhau ra bãi biển ngắm sóng lớn, coi đó như một trò vui. Chỉ khi những nhà tắm khổng lồ bằng gỗ dọc bãi biển bắt đầu gãy đổ, từng tấm ván bay tung trong gió, họ mới giật mình.
Lúc 14h30, nước tràn ngập thành phố từ cả hướng vịnh phía bắc. Ông Isaac cuối cùng cũng phải thừa nhận rằng em trai mình đúng – một cơn bão khổng lồ đang lao tới. Nhưng cờ báo bão vẫn không được treo, vì ông Willis (lãnh đạo USWB tại Washington) chưa cho phép gọi đây là “hurricane”.
Mọi chuyện lúc đó đã quá muộn. Đường sắt bị cắt đứt. Ngựa xe không thể đi lại. Người dân mắc kẹt.
Người dân đổ dồn vào những ngôi nhà lớn, tin rằng chúng đủ vững chắc trong bão Galveston. Đến giữa buổi chiều, gió giật tới 160 km/h. Khi về nhà, ông Isaac thấy hơn 50 người trú trong nhà mình. Những ngôi nhà ven biển bắt đầu đổ sập.
Đến 18h15, gió bão Galveston từ hướng tây thổi tới với vận tốc 190–225 km/h (tương đương cấp 4 theo thang đo Saffir–Simpson của Mỹ), cuốn bay mọi thứ. Nhưng cơn ác mộng tồi tệ nhất vẫn chưa đến.
Cảnh tan hoang do siêu bão Galvesnton gây ra. Ảnh: Rosenberg Library
Khoảng 19h30, những người còn sống đứng nhìn ra ngoài đều thấy cùng một cảnh tượng: Nước biển dâng 1,2 m chỉ trong tích tắc. Đây không phải một con sóng, mà chính là nước biển dâng lên rồi tràn vào. Một bức tường nước khổng lồ nhấn chìm Galveston, biến thành phố này thành đáy biển.
Trong dòng lũ hỗn loạn là nhà cửa, mái ngói, đường ray thép, xe ngựa, đàn piano, đồ đạc gia đình, ảnh chụp, nhà vệ sinh… và hàng trăm thi thể. Từng ngôi nhà bị nghiền nát, con người bị hất tung xuống nước, cuốn lẫn trong đêm tối khi điện trên đảo đã tắt hoàn toàn.
Đến nửa đêm, cơn bão bắt đầu suy yếu. Khoảng 3 giờ sáng 9/9, nước rút dần. Bình minh ló rạng với một mặt trời rực rỡ. Những người sống sót, đa số trong trạng thái choáng váng, bắt đầu nhìn quanh. Hòn đảo đã bị tàn phá hoàn toàn.
Khắp nơi chỉ còn những đống đổ nát khổng lồ từ hơn 3.600 ngôi nhà và 600 cơ sở kinh doanh bị phá hủy, hàng nghìn công trình khác bị hư hại. Trong 770 ha đống đổ nát là vô số người chết và xác động vật.
Thi thể các nạn nhân thiệt mạng trong siêu bão Galveston năm 1900. Ảnh: Rosenberg Library
Theo trang Texas Historical Foundation, ước tính có từ 6.000 đến 8.000 người thiệt mạng ngay tại Galveston, tức khoảng một phần sáu dân số đảo. Nếu tính cả những người thiệt mạng ở đất liền khi bão tiếp tục di chuyển lên phía bắc, con số lên tới gần 12.000. Tính đến nay, xét về số người thiệt mạng, bão Galveston năm 1900 vẫn là thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử Mỹ.
Theo trang Galveston History, thiệt hại tài chính do cơn bão Galveston năm 1900 được ước tính lên tới 30 triệu USD – con số khổng lồ vào thời điểm đó.
Nỗ lực tái thiết
Người dân Galveston đứng giữa đống đổ nát hậu siêu bão năm 1900. Ảnh: Rosenberg Library
Thảm họa Galveston năm 1900 đã để lại bài học đắt giá: Nó buộc giới khí tượng và nhà chức trách Mỹ phải cải tổ cách thu thập thông tin, chia sẻ dữ liệu quốc tế và tổ chức hệ thống cảnh báo bão. Những sai lầm trong việc bỏ qua báo cáo từ các trạm khí tượng ở Cuba đã làm rõ rủi ro của việc phong tỏa thông tin khoa học.
Sau thảm họa, người dân Galveston quyết tâm tái thiết. Họ vẫn gắn bó với mảnh đất này, nhưng biết rằng phải tìm cách bảo vệ trước những cơn bão tương lai.
Để khôi phục lại thành phố, dân cư đã thông qua một khoản trái phiếu để xây đê chắn sóng cao 5,2 m, dài 4,8 km (sau này kéo dài thành 16 km trong 60 năm tiếp theo). Công trình bắt đầu năm 1902 và hoàn tất hai năm sau đó. Đây là một thành tựu kỹ thuật vĩ đại của thời kỳ đó: bức tường rộng 4,9 m ở chân, 1,5 m trên đỉnh, bề mặt cong hướng ra biển, nặng tới 20 tấn mỗi mét dài, trị giá 1,5 triệu USD.
Không chỉ có đê chắn sóng, toàn bộ thành phố cũng được nâng nền cao thêm tối đa 5,5 m ở phía giáp biển. Hơn 200 công trình trong 500 khu phố được nâng lên. Hệ thống vỉa hè, cống thoát nước, đường ống khí đốt, nước sạch, nhà cửa, trường học, nhà thờ… tất cả đều phải nâng theo.
Người dân tự chi trả để nâng nhà mình, phần còn lại được thực hiện bằng tiền trái phiếu. Công trình hoàn tất năm 1910 với chi phí 3,5 triệu USD (tương đương 94 triệu USD hiện nay).
Một trong những cơn bão khủng khiếp nhất thế kỷ 20 đã biến vùng đất Trung Mỹ thành "địa ngục trần gian". Siêu bão với sức gió gần 300 km/h – không...
Nguồn: [Link nguồn]
-30/09/2025 18:50 PM (GMT+7)