Bất ngờ về quan hệ Mỹ - Venezuela

Từ thời Thế chiến II cho tới cuối thập niên 1990, mối quan hệ giữa Venezuela và Mỹ có thể nói là vừa hợp tác khăng khít vừa phụ thuộc lẫn nhau.

Trong hầu hết giai đoạn của thế kỷ 20, Mỹ coi Venezuela là nơi cung cấp dầu mỏ ổn định và an toàn. Ảnh minh họa. Nguồn: Discovery Alert.

Trong hầu hết giai đoạn của thế kỷ 20, Mỹ coi Venezuela là nơi cung cấp dầu mỏ ổn định và an toàn. Ảnh minh họa. Nguồn: Discovery Alert.

Ít người biết rằng Mỹ và Venezuela từng có mối quan hệ gắn bó, đặc biệt là trong nửa sau thế kỷ 20. Ngày nay, Venezuela đi theo con đường riêng, dẫn đến những căng thẳng ngày càng leo thang với Mỹ. Nguy cơ xung đột quân sự Mỹ - Venezuela được cho là có khả năng xảy ra.

Venezuela ngày nay là quốc gia dầu mỏ hàng đầu nhưng bị Mỹ áp đặt các biện pháp cấm vận mạnh mẽ, khiến nền kinh tế kiệt quệ. Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), đến năm 2023, Venezuela sở hữu khoảng 303 tỷ thùng trữ lượng dầu đã chứng minh (đã được xác nhận bằng thăm dò địa chất, khoan giếng và dữ liệu kỹ thuật), chiếm khoảng 17% tổng trữ lượng dầu mỏ toàn cầu.

Nguồn dầu mỏ của Venezuela được phát hiện vào đầu thế kỷ 20 và kể từ đó trở thành mối liên kết gắn bó mật thiết với Mỹ, theo History.

Từ quốc gia nông nghiệp thành cường quốc dầu mỏ

Trong nhiều thế kỷ, Venezuela vốn được biết đến như một xứ sở nông nghiệp. Xuất khẩu chính của nước này trước thế kỷ 20 là cà phê, cacao, mía đường và gia súc. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, nhưng giá cả bấp bênh và năng suất thấp khiến đất nước khó vươn lên thịnh vượng. Hệ thống canh tác chủ yếu mang tính truyền thống, phân tán và phụ thuộc vào thị trường châu Âu, trong khi trong nước vẫn đối mặt với bất ổn chính trị và thiếu cơ sở hạ tầng.

Bước ngoặt đến khi ngành dầu mỏ bắt đầu hình thành. Những mầm mống đầu tiên xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, nhưng phải tới đầu thế kỷ 20, dưới thời nhà độc tài Juan Vicente Gómez, cánh cửa mới thực sự mở ra cho các tập đoàn quốc tế. Năm 1913, tập đoàn Royal Dutch-Shell của Anh – Hà Lan tiếp quản quyền khai thác ở hồ Maracaibo, đánh dấu sự hình thành nền công nghiệp dầu mỏ hiện đại.

Sau Thế chiến I, nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng mạnh, các công ty Mỹ như Standard Oil và Gulf Oil nhanh chóng đầu tư vào Venezuela. Chỉ trong vòng vài năm, Venezuela từ một nền kinh tế dựa trên nông nghiệp đã chuyển dịch mạnh sang khai thác dầu, trở thành một trong những nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới. Đến năm 1922, Venezuela được ghi nhận là nguồn cung dầu quan trọng trên bản đồ quốc tế, với những mỏ dầu lớn liên tiếp được phát hiện.

Vị thế trong Thế chiến II

Bước ngoặt lịch sử đến vào Thế chiến II. Khi nhiều tuyến cung ứng năng lượng ở Trung Đông và châu Á bị đe dọa, Venezuela trở thành nhà cung cấp dầu an toàn nhất cho Mỹ và phe Đồng minh. Với sản lượng 563.000 thùng/ngày vào năm 1939, Venezuela là nước xuất khẩu dầu số một thế giới và đứng thứ ba về sản lượng khai thác, chỉ sau Mỹ và Liên Xô.

Dầu mỏ của Venezuela góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân Đồng Minh trong Thế chiến 2. Ảnh: iStock.

Dầu mỏ của Venezuela góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân Đồng Minh trong Thế chiến 2. Ảnh: iStock.

Đáng chú ý, giai đoạn này Venezuela cũng trải qua quá trình chuyển đổi chính trị quan trọng. Các đời Tổng thống Venezuela gồm Eleazar Lopez Contreras và Isaias Medina Angarita đã cải cách luật dầu mỏ, gia tăng thuế và kiểm soát của nhà nước nhưng vẫn duy trì hợp tác với các công ty quốc tế.

Nước Mỹ dưới thời Tổng thống Franklin D. Roosevelt (nắm quyền 1933 – 1945) chấp nhận các cải cách của Venezuela, đổi lại Caracas bảo đảm nguồn cung cấp dầu ổn định cho phe Đồng minh.

Theo tài liệu lưu trữ của Nhà Trắng, Tổng thống Venezuela Angarita gửi thông điệp tới Washington năm 1943: “Dân tộc Venezuela… luôn tôn trọng quyền hợp pháp của các công ty dầu, nhưng cũng phải đòi hỏi một phần công bằng từ sự giàu có dưới lòng đất của mình”.

Tổng thống Franklin D. Roosevelt đáp lại: “Chúng tôi không đòi hỏi một sự đối xử đặc biệt nào cho các công ty Mỹ, ngoài những gì áp dụng cho mọi công ty quốc tế theo luật pháp Venezuela”.

Thông qua dầu mỏ, Venezuela sau này còn tiếp tục hỗ trợ các kế hoạch tái thiết châu Âu của Mỹ thời hậu chiến. Trong khuôn khổ Kế hoạch Marshall (kế hoạch viện trợ của Mỹ cho Tây Âu năm 1948), Caracas duy trì sản lượng khai thác cao, giúp nền kinh tế Tây Âu phục hồi.

Thành viên sáng lập OPEC

Tổng thống Venezuela Luis Herrera Campins được Tổng thống Mỹ Ronald Reagan chào đón tại Nhà Trắng vào ngày 17/11/1981. Ảnh: Nhà Trắng.

Tổng thống Venezuela Luis Herrera Campins được Tổng thống Mỹ Ronald Reagan chào đón tại Nhà Trắng vào ngày 17/11/1981. Ảnh: Nhà Trắng.

Sau Thế chiến II, Venezuela tiếp tục mở rộng sản xuất dầu. Tới năm 1950, sản lượng khai thác đạt gần 1,5 triệu thùng/ngày, gấp 3 lần so với thập niên 1940. Venezuela lúc này trở thành nhà cung cấp dầu hàng đầu cho Mỹ, khi nhu cầu nhập khẩu năng lượng của nền kinh tế lớn nhất thế giới ngày một tăng.

Địa vị quốc tế của Venezuela được nâng lên một nấc mới vào năm 1960, khi nước này trở thành một trong năm thành viên sáng lập Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cùng Iran, Iraq, Kuwait và Ả Rập Saudi. Với vai trò này, Caracas góp phần định hình chính sách giá dầu toàn cầu, khẳng định mình không chỉ là nguồn cung cấp, mà còn là một tác nhân chính trị – kinh tế có ảnh hưởng.

Trong thập niên 1960, Venezuela cũng khởi xướng chính sách “không tiếp tục nhượng quyền khai thác mới”, nhằm tiến tới quốc hữu hóa ngành dầu. Đây là bước chuyển quan trọng thể hiện chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên chiến lược.

Khủng hoảng dầu mỏ 1973 và cơ hội cho Venezuela

Tháng 10/1973, sau khi nổ ra chiến tranh Ả Rập – Israel, các nước Ả Rập trong nhóm OPEC đồng loạt cắt giảm sản lượng và áp đặt cấm vận dầu mỏ với Mỹ cùng những quốc gia ủng hộ Israel. Chỉ trong vòng vài tháng, giá dầu thế giới tăng gấp 4 lần, gây ra một cuộc khủng hoảng chưa từng có. Tại Mỹ, người dân phải xếp hàng dài tại các trạm xăng, kinh tế rơi vào suy thoái, lạm phát leo thang.

Trong bối cảnh ấy, Venezuela tiếp tục đóng vai trò là nguồn cung năng lượng liên tục và an toàn cho Mỹ nhờ vị trí địa lý và không bị cuốn vào căng thẳng ở Trung Đông. Chính phủ Venezuela khi đó bắt đầu chủ trương gia tăng quyền kiểm soát với ngành dầu. Mỹ lúc này cần nguồn cung ổn định, buộc phải dần chấp nhận thực tế này.

Tờ New York Times (NYT) đưa ra nhận định vào năm 1973: “Khủng hoảng năng lượng đã khiến Washington phải nhìn sang Caracas như một nguồn cung thiết yếu và an toàn hơn Trung Đông”.

Bước ngoặt lịch sử năm 1976

Dầu mỏ Venezuela hầu như chỉ đáp ứng nhu cầu của Mỹ. Ảnh: Reuters.

Dầu mỏ Venezuela hầu như chỉ đáp ứng nhu cầu của Mỹ. Ảnh: Reuters.

Ngày 1/1/1976, Tổng thống Venezuela khi đó là Carlos Andres Perez ký đạo luật quốc hữu hóa ngành dầu, chính thức thành lập công ty quốc doanh Petróleos de Venezuela S.A. (PDVSA). Từ đây, PDVSA trở thành trụ cột kinh tế, trực tiếp quản lý và khai thác nguồn dầu mỏ.

“Chúng ta cần tách biệt rõ ràng việc tổ chức lại ngành dầu khí ở Venezuela… với những bất đồng quan điểm về giá dầu và vai trò của OPEC”, Tổng thống Venezuela Carlos Andres Perez nhấn mạnh cần tách biệt lợi ích quốc gia và lợi ích công ty, theo tài liệu lưu trữ của Nhà Trắng.

Dù vậy, quan hệ dầu mỏ với Mỹ không chấm dứt. Washington vẫn cần nguồn dầu gần gũi, ổn định từ Venezuela, trong khi Caracas cần ngoại tệ và công nghệ. Các công ty Mỹ chuyển sang hợp tác thông qua liên doanh hoặc mua bán trực tiếp.

Theo tài liệu đăng tải trên trang web của Nhà Trắng, Washington chấp nhận để Venezuela quốc hữu hóa ngành dầu mỏ, nhưng yêu cầu có bồi thường “kịp thời, thích đáng và hiệu quả” cho các công ty Mỹ bị ảnh hưởng. Theo Nhà Trắng, thái độ của Mỹ khi đó là “thân thiện, nhưng không dễ dãi”.

Công ty Creole (thuộc Exxon) của Mỹ khi đó đưa ra yêu cầu được tiếp tục khai thác 600.000 thùng/ngày dưới danh nghĩa PDVSA, dù trước khi quốc hữu hóa, họ khai thác tới 1,4 triệu thùng/ngày.

“Đó rõ ràng là một hình thức gây sức ép, nhằm làm chính phủ Venezuela lo ngại”, ông Perez nói về yêu cầu của công ty Mỹ.

Chính phủ Venezuela một mặt khéo léo từ chối, mặt khác chủ động bồi thường tài chính cho các công ty Mỹ và chấp thuận một số thỏa thuận chuyển tiếp, cho phép duy trì hợp tác trong một số lĩnh vực kỹ thuật, lọc hóa dầu và phân phối.

Venezuela quốc hữu hóa ngành dầu mỏ từ năm 1976, vận hành bởi công ty nhà nước PDVSA. Ảnh: Reuters.

Venezuela quốc hữu hóa ngành dầu mỏ từ năm 1976, vận hành bởi công ty nhà nước PDVSA. Ảnh: Reuters.

Nhờ dàn xếp nhanh chóng, sản lượng khai thác dầu của PDVSA duy trì mức 2,3 triệu thùng/ngày ngay trong năm đầu hoạt động. Tới thập niên 1980, PDVSA không chỉ được coi là một trong những công ty dầu lớn nhất thế giới mà còn bắt đầu mua lại các nhà máy lọc dầu ở Mỹ và châu Âu.

Sự gắn bó với thị trường Mỹ

Một dấu mốc quan trọng là năm 1986, PDVSA mua lại công ty Citgo Petroleum tại Mỹ. Với hệ thống hơn 1.000 trạm xăng và mạng lưới phân phối rộng khắp, Citgo giúp Venezuela không chỉ bán dầu thô, mà còn trực tiếp tham gia thị trường tiêu thụ lớn nhất hành tinh. Có thời điểm, Citgo chiếm tới 20% thị phần xăng dầu ở Mỹ, biến quan hệ Caracas – Washington thành mối gắn kết chặt chẽ về kinh tế – năng lượng.

Sang thập niên 1990, PDVSA tiếp tục mở rộng. Các vòng “thỏa thuận khai thác” cho phép hơn 20 công ty quốc tế, trong đó có nhiều tập đoàn Mỹ, quay trở lại khai thác ở những mỏ dầu cũ. Chỉ trong vài năm, sản lượng tăng thêm 260.000 thùng/ngày, thu hút hơn 2 tỷ USD vốn đầu tư.

Đến cuối thập niên này, PDVSA tái cơ cấu, hợp nhất các chi nhánh và duy trì vị thế một trong những công ty dầu khí mạnh nhất thế giới. Mỹ khi đó vẫn là khách hàng lớn nhất, chiếm khoảng một nửa lượng xuất khẩu dầu của Venezuela.

Có thể nói, cho tới cuối thập niên 1990, quan hệ Mỹ – Venezuela vẫn là mối liên kết chặt chẽ trong lĩnh vực dầu mỏ, vừa phụ thuộc vừa bổ sung lẫn nhau. Điều này đặt nền móng cho những diễn biến đầy kịch tính xảy ra sau này dưới thời Tổng thống Venezuela Hugo Chavez.

______________________

Sau giai đoạn hợp tác và gắn kết nhờ dầu mỏ, Mỹ và Venezuela chuyển sang trạng thái đối đầu kể từ thời Tổng thống Venezuela Hugo Chavez. Đằng sau mối quan hệ căng thẳng này là gì? Vì sao Mỹ nhiều lần muốn can thiệp vào Venezuela? Mời độc giả đón đọc bài kỳ 2 xuất bản tối ngày 15/9.

Venezuela cáo buộc lực lượng có vũ trang của Mỹ xâm nhập và "chiếm giữ trái phép" một tàu cá của nước này trong vùng đặc quyền kinh tế, làm căng thẳng...

Chia sẻ
Gửi góp ý
Lưu bài Bỏ lưu bài
Theo Đăng Nguyễn - Tổng hợp ([Tên nguồn])
Mối quan hệ Mỹ - Venezuela Xem thêm
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN