Đế quốc châu Âu vơ vét kho báu vàng bạc khổng lồ, không ngờ là “thuốc độc” dẫn đến bi kịch cay đắng

Đế quốc Tây Ban Nha là một trong những đế quốc hùng mạnh nhất lịch sử thế giới, để lại di sản đến ngày nay khi phần lớn các nước Nam Mỹ vẫn dùng tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức. Vào thời kỳ xâm chiếm thuộc địa, Tây Ban Nha vơ vét núi vàng bạc khổng lồ nhưng không ngờ đây lại là “chén thuốc độc” khiến cả một đế chế kiệt quệ.

Vàng bạc được Tây Ban Nha vơ vét từ châu Mỹ dẫn đến những khủng hoảng ở chính quốc. Ảnh minh họa.

Vàng bạc được Tây Ban Nha vơ vét từ châu Mỹ dẫn đến những khủng hoảng ở chính quốc. Ảnh minh họa.

Loạt bài này đề cập đến những đế chế khởi đầu với lợi thế gần như vô song: có nơi giàu có nhờ tài nguyên thiên nhiên, có nơi thịnh vượng nhờ kỹ nghệ vượt trội, và có nơi nắm giữ vị trí địa lý chiến lược khiến tiền của tự tìm đến. Nhưng chính trong ánh hào quang của quyền lực và phồn vinh, những sai lầm dần xuất hiện, mở ra con đường dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi.

Cơn sốt vàng bạc khi Tây Ban Nha xâm chiếm thuộc địa

Khi nhà thám hiểm Cristoforo Colombo (Christopher Columbus) đặt chân tới châu Mỹ (còn được gọi là Tân Thế giới) năm 1492, ông không chỉ mở ra một chương mới cho lịch sử châu Âu mà còn đặt nền móng cho đế chế thực dân rộng lớn nhất thế giới lúc bấy giờ: Đế quốc Tây Ban Nha. 

Tây Ban Nha nhanh chóng kiểm soát các vương quốc bản địa ở Nam Mỹ như Aztec và Inca, rồi thiết lập hệ thống thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên, đặc biệt là vàng và bạc.

Từ giữa thế kỷ 16, hàng loạt đoàn tàu kho báu mang theo vàng bạc từ châu Mỹ đổ về các cảng Tây Ban Nha như Seville. Riêng bạc từ thành phố Potosi (nay thuộc Bolivia) và thành phố Zacatecas (nay thuộc Mexico) đã tạo nên “cơn lũ tiền tệ” chưa từng có trong lịch sử châu Âu.

Người Tây Ban Nha tưởng như đang bước vào thời kỳ hoàng kim: kho bạc hoàng gia đầy ắp, các nhà thờ và công trình vĩ đại mọc lên như nấm, triều đình tài trợ cho những đội quân chinh phạt khắp châu Âu.

Tuy nhiên, của cải khổng lồ ấy lại trở thành mầm mống cho bi kịch lịch sử, theo History.

Lạm phát, suy thoái và khủng hoảng

Ngay khi lượng lớn kim loại quý ồ ạt chảy vào Tây Ban Nha, giá cả trong nước bắt đầu tăng vọt. Từ năm 1501 đến 1600, giá cả hàng hóa tại Tây Ban Nha đã tăng gấp 4 lần. Đây là một phần của hiện tượng được gọi là “Cách mạng giá cả”, khiến đồng tiền mất giá nghiêm trọng trong suốt thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17.

Theo trang Classic Journal, nhà kinh tế học Martin Gonzalez de Cellorigo thời đó từng cảnh báo: “Có tiền mà không giàu là điều đáng buồn nhất. Cái làm nên phồn vinh là lao động, là sản xuất, chứ không phải vàng bạc”.

Sự phụ thuộc vào kim loại quý khiến nền kinh tế Tây Ban Nha mất dần năng lực tự thân. Người dân bỏ bê nông nghiệp, tiểu thủ công và thương mại, chỉ lo tích lũy vàng bạc hoặc đầu cơ tài sản.

Trong khi đó, Tây Ban Nha lại nhập khẩu hầu hết hàng hóa chế tạo từ Hà Lan, Anh và Pháp và xuất khẩu chủ yếu nguyên liệu thô. Sản xuất trong nước co cụm. Giai cấp thị dân và thương nhân yếu ớt, tầng lớp quý tộc sống dựa vào tô thuế và tài sản thừa kế.

Dồn tiền nuôi chiến tranh, chi tiêu vượt quá năng lực

Lãnh thổ đế quốc Tây Ban Nha kiểm soát ở châu Mỹ vào năm 1800.

Lãnh thổ đế quốc Tây Ban Nha kiểm soát ở châu Mỹ vào năm 1800.

Dưới triều đại của vua Carlos V (1516 – 1556) và Felipe II (1556-1598), Tây Ban Nha dốc toàn lực cho các cuộc chinh phạt ở châu Âu. Phần lớn các cuộc chiến mang động cơ chính trị – tôn giáo, nhưng lại không đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho quốc gia.

Đầu tiên là chiến tranh với đế chế Ottoman. Trong suốt thế kỷ 16, Tây Ban Nha liên tục đối đầu với đế chế Ottoman trong cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng tại Địa Trung Hải.

Trận Lepanto (1571) ở Địa Trung Hải đánh dấu Liên minh Công giáo do Tây Ban Nha dẫn đầu đánh bại hạm đội Ottoman – một chiến thắng vang dội nhưng tiêu tốn ngân sách khổng lồ. Xung đột kéo dài tại Bắc Phi và Địa Trung Hải khiến Tây Ban Nha phải duy trì hạm đội lớn tại khu vực này suốt nhiều thập niên.

Thứ hai là chiến tranh 80 năm. Cuộc nổi dậy của Hà Lan (1568–1648) nhằm giành độc lập đã cuốn Tây Ban Nha vào một cuộc chiến tiêu hao kéo dài suốt 80 năm.

Dù ban đầu giành được một số thắng lợi, Tây Ban Nha cuối cùng phải chấp nhận thất bại với Hòa ước Westphalia (1648), công nhận độc lập cho Hà Lan.

Thứ ba là chiến tranh với Anh. Quan hệ Tây Ban Nha – Anh xấu đi sau khi nữ hoàng Elizabeth I lên ngôi và ủng hộ phong trào Tin Lành.

Năm 1588, Tây Ban Nha huy động hạm đội “Armada Invencible” (Hạm đội Bất khả chiến bại) tấn công Anh nhưng thất bại thảm hại. Tây Ban Nha và Anh tiếp tục lâm vào trạng thái xung đột kéo dài, trong đó các trận hải chiến, đánh phá thuộc địa và cướp bóc thương thuyền khiến chi phí quốc phòng ngày càng gia tăng.

Thứ tư là cuộc chiến với Pháp. Từ thập niên 1630 trở đi, Tây Ban Nha còn xung đột trực tiếp với Pháp trong Chiến tranh Pháp – Tây Ban Nha (1635–1659). Đây là cuộc đấu giữa hai nhà Habsburg (hoàng gia Tây Ban Nha) và Bourbon (hoàng gia Pháp) nhằm giành vị thế bá chủ châu Âu.

Dù có lúc chiếm được phần lớn miền Bắc nước Pháp, Tây Ban Nha suy yếu dần về tài chính, quân lực và nhân lực. Kết quả là Hòa ước Pyrenees (1659) buộc Tây Ban Nha nhượng lại nhiều lãnh thổ và mất vị thế cường quốc hàng đầu lục địa.

Khi vàng bạc thiếu hụt, hoàng gia vay nợ từ các chủ ngân hàng ở Italia và Đức. Hệ quả là phần lớn tài sản Tây Ban Nha rơi vào tay nước ngoài. Nghị viện Tây Ban Nha từng mỉa mai: “Vàng bạc cứ chảy đi như thể chính chúng ta là xứ thuộc địa như người bản xứ ở Tân Thế giới, còn các nước châu Âu là mẫu quốc”.

Dưới thời vua Felipe II, Tây Ban Nha rơi vào vòng xoáy nợ công khủng khiếp, buộc phải tuyên bố vỡ nợ lần đầu năm 1557. Các lần vỡ nợ tiếp theo diễn ra năm 1575, 1596 và tiếp tục cho tới tận năm 1666 – tổng cộng 9 lần trong hơn 100 năm.

Nợ chồng chất nợ

Cung điện hoàng gia Tây Ban Nha là cung điện lớn nhất ở châu Âu với diện tích 135.000 m2 và có 3.418 phòng.

Cung điện hoàng gia Tây Ban Nha là cung điện lớn nhất ở châu Âu với diện tích 135.000 m2 và có 3.418 phòng.

Để tiếp tục duy trì đế chế, hoàng gia Tây Ban Nha phát minh ra nhiều hình thức vay nợ mới như asientos (khoản vay ngắn hạn có thế chấp bằng bạc Mỹ) hay juros (trái phiếu dài hạn). Tuy nhiên, khi nguồn vàng bạc từ châu Mỹ bị gián đoạn hoặc không đủ, Tây Ban Nha không thể thanh toán đúng hạn, phải gia hạn và trả lãi cao hơn, khiến gánh nặng tài chính ngày càng chồng chất.

Cùng lúc, tầng lớp trung lưu và nông dân Tây Ban Nha gánh chịu thuế khóa khắc nghiệt. Thuế alcabala (10% trên mọi giao dịch) và thuế millones (trên thực phẩm thiết yếu) khiến giá sinh hoạt tăng vọt trong khi tiền lương trì trệ. Nông dân và thợ thủ công kiệt quệ, di cư sang Mỹ Latin hoặc chết vì dịch bệnh.

Bên cạnh lạm phát và nợ công, Tây Ban Nha còn rơi vào tình trạng khủng hoảng dân số. Người dân theo làn sóng rời quê hương sang Tân Thế giới kiếm tìm vàng bạc. Đồng thời, các đợt dịch hạch cuối thế kỷ 16 và tỉ lệ sinh giảm khiến dân số Tây Ban Nha sụt giảm nghiêm trọng. Nguồn lao động thiếu hụt khiến tiền công tăng, quân đội phải dùng đến lính đánh thuê nước ngoài với chi phí rất lớn.

Kinh tế đã suy yếu, nhưng triều đình vẫn không từ bỏ các cuộc chiến. Hệ thống hành chính cồng kềnh và tham nhũng càng làm mọi thứ trở nên trì trệ. Theo Classic Journal, một nhà quan sát thời đó từng nói: “Tây Ban Nha giờ đây chẳng khác nào chiếc bóng huy hoàng của chính mình trong quá khứ”.

Người dân chìm trong đói nghèo

Dù Tây Ban Nha thu về hàng nghìn tấn vàng bạc, cuộc sống người dân vẫn vô cùng khốn khó. Theo Classic Journal, một học giả sống ở thế kỷ 17 nhận xét chua chát: “Ở Hà Lan, ai có 10.000 livre (tiền tệ làm so sánh) thì sống sung túc. Nhưng ở Tây Ban Nha, dù có gấp mười lần, người ta vẫn không sống nổi”.

Nhà kinh tế học Gonzalez de Cellorigo gọi hiện tượng này là “giàu giả tạo” – một sự lệch pha giữa vàng bạc và giá trị thực. Người Tây Ban Nha bỏ bê lao động, coi thường nghề nghiệp sản xuất, sống bằng đầu cơ, tích trữ hoặc đi tìm may mắn ở Tân Thế giới. Giai cấp hidalgo (quý tộc nhỏ) tăng mạnh, sống nhờ đặc quyền và không chịu lao động, càng khiến lực lượng sản xuất trong nước teo tóp.

Theo một cuộc điều tra dân số năm 1542, ít nhất 12% dân số Tây Ban Nha khi đó thuộc về giai cấp hidalgo. Vào thời điểm đó, số dân ở Tây Ban Nha ước tính vào khoảng 6,5 triệu người. Tầng lớp quý tộc nhỏ chiếm tỉ lệ đáng kể, chưa kể hoàng gia và quý tộc, cho thấy tỉ lệ dân số nhàn rỗi ở Tây Ban Nha là rất lớn.

Một đế chế bị vàng bạc “đầu độc”

Có thể nói, không đế quốc nào trong lịch sử lại vỡ nợ nhiều lần như Tây Ban Nha thế kỷ 16–17. Từ một cường quốc hàng hải, sở hữu thuộc địa khắp năm châu và nguồn kim loại quý tưởng như vô tận, Tây Ban Nha lụn bại bởi chính khối tài sản ấy.

Sự phụ thuộc mù quáng vào vàng bạc khiến Tây Ban Nha đánh mất nền tảng sản xuất, tự mãn trong quyền lực quân sự, và thất bại trong việc xây dựng thể chế tài chính lành mạnh. Như một học giả từng nhận xét: “Quà tặng từ châu Mỹ đã trở thành chén thuốc độc đối với đế quốc Tây Ban Nha”.

Dĩ nhiên, không ai có thể biết lịch sử có thể thay đổi ra sao nếu Tây Ban Nha biết cách khai thác hiệu quả hơn tiềm năng to lớn của Tân Thế giới. Nhưng điều còn lại sau cùng chính là một di sản cay đắng: Đế quốc này đã bất lực trong việc bị sự giàu có và hào nhoáng kéo nền kinh tế suy thoái và đẩy người dân vào tình cảnh cùng cực, theo Classic Journal.

______________________

Trung Hoa vào thời nhà Minh sở hữu nền sản xuất hàng đầu thế giới, khiến nhiều cường quốc mơ ước. Nhưng một số chính sách tưởng như có lợi lại khiến triều đại tự hủy hoại từ bên trong. Mời độc giả đón đọc bài kỳ 2 xuất bản tối 26/10 về bối cảnh dẫn đến sai lầm này.

Đương đầu với 2 đế chế mạnh bậc nhất thế giới và nếm nhiều thất bại, hoàng đế đầu tiên của Nga thể hiện tinh thần không bỏ cuộc và quyết thực hiện đến...

Chia sẻ
Gửi góp ý
Lưu bài Bỏ lưu bài
Theo Đăng Nguyễn - Tổng hợp ([Tên nguồn])
Các đế quốc hùng mạnh trong lịch sử thế giới Xem thêm
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN