Federer: 10 năm của những con số vĩ đại
Tháng Hai này là tròn 10 năm kể từ ngày đầu tiên Roger Federer trở thành tay vợt số 1 thế giới.
Chính xác vào ngày 2/2/2004, Roger Federer chính thức vươn lên số 1 trên bảng xếp hạng ATP.
Ký ức vẫn như vẹn nguyên lúc Federer quỳ hai gối xuống đất và giương cao cánh tay ăn mừng. Đó là vào lúc 21h30 giờ Melbourne ngày 30/1/2004, sau khi FedEx đánh bại tay vợt người Tây Ban Nha Juan Carlos Ferrero (6-4, 6-1, 6-4) tại trận bán kết Australian Open 2004. Chiến thắng ấy vừa đủ để Federer vượt qua tay vợt người Mỹ Andy Roddick trên bảng xếp hạng ATP vào tuần sau đó, ngay cả khi FedEx có thất bại trong trận chung kết Australian Open 2004. Federer thú nhận rằng, “Tôi muốn tận hưởng khoảnh khắc này. Bạn có thể chỉ một lần trong đời là số 1 thế giới.”
Federer đánh bại Juan Carlos Ferrero 6-4, 6-1, 6-4 tại bán kết Australian Open 2004
Ba ngày sau, Federer đánh bại cựu số 1 thế giới người Nga Marat Safin trong 3 set (7-6(7-3), 6-4, 6-2) để giành Grand Slam thứ hai trong sự nghiệp. Bây giờ không ai còn nghĩ cậu bé 15 tuổi Roger Federer mơ mộng hão huyền vào 7 năm trước. Ở Trung tâm quần vợt quốc gia Thụy Sỹ tại Ecublens năm 1997, một cậu bé đã viết lên giấy mục tiêu trong sự nghiệp: Lọt vào Top 10 và trở thành số 1 thế giới.
Federer ăn mừng khi chắc chắn trở thành số 1 thế giới trước khi đánh bại Safin 3 ngày sau
Chỉ trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến 1/2/2004, Federer thiết lập nên con số 192 trận thắng - 60 trận thua (tỷ lệ chiến thắng 73.3%) và giành 12 danh hiệu.
Nhưng không như Federer nói, “số 1 thế giới một lần trong đời”. Tay vợt người Thụy Sỹ đã tạo nên một kỷ nguyên của riêng mình với kỷ lục vô tiền khoáng hậu 237 tuần liên tiếp là số 1 thế giới cho tới ngày 16/8/2008, trước khi Rafael Nadal soán ngôi. Và sau đó là quãng thời gian mà ít người nghĩ tới việc ngày nào đó Federer có thể san bằng con số 286 tuần số 1 thế giới của huyền thoại Pete Sampras, khi Nadal ngày càng giữ chắc ngôi vương của làng banh nỉ.
Dù vậy Federer đã hai lần trở lại ngôi số 1 thế giới vào năm 2010, khi Nadal gặp chấn thương, và năm 2012, mùa giải hồi sinh thần kỳ của FedEx với Grand Slam thứ 17 tại Wimbledon 2012. Thêm 65 tuần là số 1 thế giới, Federer đã có 302 tuần trên đỉnh thế giới, vượt qua Sampras 16 tuần. Đó là cột mốc mà chưa biết tới bao giờ mới có tay vợt sánh ngang Federer.
Khi là số 1 thế giới, Federer thắng 421 trận và chỉ thua 53 trận (tỷ lệ chiến thắng tới 88,8%). FedEx thắng 50 trận và thua 18 trận ở các trận chung kết mọi giải đấu, trong đó giành 11 Grand Slam và 15 danh hiệu Masters 1000.
Kỷ lục 302 tuần số 1 thế giới, trong đó có 237 tuần liên tiếp, của Federer khó có ai sánh nổi
Một phép so sánh với kỳ phùng địch thủ Rafael Nadal, tay vợt đang có tuần thứ 121 là số 1 thế giới. Khi trên đỉnh làng banh nỉ, Nadal thắng 161 trận và thua 26 trận (tỷ lệ chiến thắng 86,1%), trong đó thắng 45 trận và thua 5 trận ở các trận chung kết. Còn với Novak Djokovic, tay vợt đã có 101 tuần số 1 thế giới, con số là 125 trận thắng - 21 trận thua (tỷ lệ chiến thắng 85,6%), 9 trận thắng - 6 trận thua ở các trận chung kết.
Mười năm trôi qua, di sản của Federer với những danh hiệu và những con số kỷ lục là đủ để ghi tên anh vào danh sách của những tay vợt vĩ đại nhất mọi thời đại. Ngày 2/2/2004, Federer trở thành số 1 thế giới. Mười năm sau, anh vẫn là một ngôi sao dù không còn trên đỉnh cao phong độ. Năm 2013 là năm thứ 12 liên tiếp Federer kết thúc mùa giải trong Top 10 thế giới. Bây giờ ngay cả khi đang là tay vợt số 8 thế giới, Federer cũng chưa dừng lại một khi anh vẫn còn niềm đam mê tennis.
Những con số thống kê khi Federer là tay vợt số 1 thế giới:
Thông số | |
---|---|
Tổng số tuần số 1 thế giới | 302 |
Số tuần liên tiếp là số 1 thế giới | 237 |
Kết thúc năm là số 1 thế giới | 5 (2004-07, 2009) |
Số năm là số 1 thế giới | 8 |
Tỷ lệ chiến thắng | .888 |
Trận thắng - thua | 421-53 |
- Năm 2004 | 67-6 (91,8%) |
- Năm 2005 | 81-4 (95,3%) |
- Năm 2006 | 92-5 (94,8%) |
- Năm 2007 | 68-9 (88,3%) |
- Năm 2008 | 47-12 (79,7%) |
- Năm 2009 | 21-6 (77,8%) |
- Năm 2010 | 23-7 (76,7%) |
- Năm 2012 | 22-4 (84,6%) |
Tỷ lệ chiến thắng tại Grand Slam | 91,8% |
Trận thắng - thua tại Grand Slam | 135-12 |
Tỷ lệ chiến thắng tại các trận chung kết | 50-18 (73,5%) |
Số Grand Slam | 11 |
Số danh hiệu Masters 1000 | 15 |
Ba giai đoạn Federer là tay vợt số 1 thế giới:
Khoảng thời gian | Số tuần |
---|---|
2/2/2004 - 16/8/2008 | 237 |
15/7/2009 - 6/6/2010 | 48 |
9/7/2012 - 4/11/2012 | 17 |
Những con số thống kê khi Federer không phải là tay vợt số 1 thế giới:
Thông số | |
---|---|
Tỷ lệ chiến thắng | 75,6% |
Trận thắng - thua | 510-164 |
Tỷ lệ chiến thắng tại Grand Slam | 81,3% |
Trận thắng - thua tại Grand Slam | 130-30 |
Tỷ lệ chiến thắng tại các trận chung kết | 27-19 (58,7%) |
Số Grand Slam | 6 |
Số danh hiệu Masters 1000 | 6 |