'Nếu không tự làm, bao giờ chuyên gia hạt nhân của ta mới lớn?'
Lần thứ ba khởi động Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, PGS.TS Nguyễn Nhị Điền và các cộng sự đứng trước bài toán: tự thực hiện hay phụ thuộc vào chuyên gia nước ngoài như lần trước.
Lần thứ ba khởi động Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, PGS.TS Nguyễn Nhị Điền và các cộng sự đứng trước bài toán: tự thực hiện hay phụ thuộc vào chuyên gia nước ngoài như lần trước.
Hai thập kỷ từ ngày tái khởi động Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, năm 2004, PGS.TS Nguyễn Nhị Điền, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, đối diện thử thách khởi động lò lần thứ ba.
Khi đó, Việt Nam là một trong 17 quốc gia tham gia chương trình chuyển đổi nhiên liệu của lò nghiên cứu do Liên Xô xuất khẩu tới các nước, nhằm hướng đến ứng dụng hạt nhân vì hoà bình. Để thay thế nhiên liệu trong lõi buộc phải dừng lò và khởi động lại, trong khi, Việt Nam chưa tự thực hiện bao giờ. Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt được người Mỹ khởi động lần đầu năm 1963, và tái khởi động vào năm 1984 với sự hỗ trợ của chuyên gia Liên Xô.
Là người "cầm trịch" dự án, PGS.TS Nguyễn Nhị Điền đứng trước câu hỏi nên tự làm, hay ký hợp đồng với chuyên gia nước ngoài để tính toán và khởi động vật lý.
PGS.TS Nguyễn Nhị Điền, 68 tuổi, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân
Bài toán tự làm hay hợp tác quốc tế
- Tại sao năm 2004, Việt Nam quyết định chuyển đổi vùng hoạt (vùng lõi) của Lò Đà Lạt từ nhiên liệu độ giàu cao sang độ giàu thấp, và chuyển trả nhiên liệu đã qua sử dụng cho Nga, thưa ông?
- Năm 1999, Mỹ, Liên bang Nga và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) thỏa thuận chương trình hợp tác ba bên. Mục tiêu là chuyển đổi nhiên liệu của lò nghiên cứu do Liên Xô xuất khẩu và xây dựng tại các nước khác, sử dụng nhiên liệu độ giàu cao (tỷ lệ Uranium-235 >20%) sang nhiên liệu độ giàu thấp (tỷ lệ Uranium-235 <20%). Dự án nhằm ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân trong dân sự, bởi tỷ lệ Uranium-235 cao có thể được sử dụng để sản xuất bom nguyên tử, trong khi thế giới đang hướng đến ứng dụng hạt nhân vì hòa bình.
Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt do Mỹ xây dựng năm 1961, và dừng vận hành năm 1968, nhưng vẫn giữ phần lõi. Tháng 3/1975, người Mỹ đã rút nhiên liệu ra nên lò không thể hoạt động. Sau đó, Liên Xô đồng ý giúp Việt Nam khôi phục lò với phần lõi là các bó nhiên liệu độ giàu cao, với tỷ lệ Uranium-235 là 36%. Dự án chuyển đổi này sẽ chuyển trả các bó nhiên liệu đó về Nga, đồng thời thay thế bằng các bó mới là nhiên liệu độ giàu thấp. Lò Đà Lạt là một trong 20 lò của 17 quốc gia nằm trong chương trình này.
Tháng 12/2003, Bộ Năng lượng Mỹ cử đoàn công tác đầu tiên đến Việt Nam và phối hợp cùng Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội làm việc với lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, đề nghị Việt Nam tham gia chương trình.
Một Tổ công tác cho dự án được Bộ Khoa học và Công nghệ lập ra với 26 thành viên, gồm nhiều bộ ban ngành, do Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Đình Tiến làm tổ trưởng. Tôi lúc đó là Viện trưởng đương nhiệm được Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và Bộ giao phụ trách dự án về mặt kỹ thuật.
Việc chuyển đổi thể hiện cam kết của Việt Nam là chỉ sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình. Thiện chí đó tạo thuận lợi cho chúng ta trong chương trình phát triển điện hạt nhân tương lai, giúp ta nhận được sự ủng hộ, tài trợ của quốc tế.
Thực tế, chính nhờ tham gia chương trình chuyển đổi, mà trước khi dự án bắt đầu, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế đã hỗ trợ một phần kinh phí cho Lò Đà Lạt cải tạo và thay thế Hệ điều khiển lò phản ứng, góp phần kéo dài tuổi thọ lò thêm 10 năm.
- Bài toán lớn nhất đặt ra cho quá trình chuyển đổi khi đó là gì?
- Vì hai loại nhiên liệu có đặc trưng kỹ thuật khác nhau, nên khi thay thế phải tính toán vật lý, thủy nhiệt và phân tích an toàn để chọn được một cấu hình vùng lõi tối ưu, sử dụng an toàn, hiệu quả. Thực chất, đó là một cấu hình vùng lõi mới nên phải dừng lò, sau đó khởi động vật lý. Trước đó, Lò Đà Lạt mới có hai lần khởi động vật lý là năm 1963 do người Mỹ và năm 1983 với sự trợ giúp của chuyên gia Liên Xô.
Chuyên gia nước ngoài đóng gói các bình nhiên liệu độ giàu cao vào container để chuẩn bị chuyển trả về Nga. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân
Muốn tính toán cần phải có các chương trình riêng, trong khi Việt Nam chưa đủ khả năng xây dựng. Những chương trình này chủ yếu do các nước cung cấp lò như Mỹ, Nga, phát triển. Mua đứt thì chúng ta không đủ kinh phí.
Một số nước có lò phản ứng sử dụng nhiên liệu của Nga đã ký hợp đồng với chuyên gia từ nước xây dựng lò để tính toán và khởi động vật lý, kinh phí do Mỹ tài trợ theo thỏa thuận của chương trình. Việt Nam cũng có thể làm tương tự.
Tuy nhiên, lúc đó chúng tôi tự đặt ra câu hỏi: Nên ký hợp đồng với Nga hay tự làm.
Tới thời điểm đó, lò Đà Lạt đã vận hành hơn 20 năm, tương đương thời gian công tác của tôi và nhiều anh chị em trong Viện. Hợp đồng thì dễ quá, nhưng mình không lớn lên được. Tự làm là một thử thách rất lớn, tuy nhiên, đây là cơ hội để chúng ta hợp tác sử dụng phương tiện tính toán, các hệ chương trình của Mỹ, và được trao đổi kinh nghiệm chuyên môn với họ. Vận may không dễ gì có.
Chúng tôi nhìn thấy đó là cơ hội để đội ngũ chuyên gia của lò trưởng thành. Hơn nữa, lúc này chúng tôi cũng đang xây dựng đề án về lò mới, trong tương lai thay thế Lò Đà Lạt do nhu cầu về đồng vị phóng xạ và nghiên cứu tăng lên. Đây cũng là dịp để chúng ta đào tạo và chuẩn bị nhân lực cho dự án trong tương lai.
- Năm 1983, ông là một trong những cán bộ khoa học Việt Nam có mặt trong phòng điều khiển, bắt đầu quá trình khởi động vật lý Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Hai mươi năm sau, một lần nữa có mặt trong phòng điều khiển để thắp sáng vùng lõi, cảm xúc của ông thế nào?
- Lần khởi động vật lý năm 1983, tôi ở vai trò nhân viên, và việc khởi động chủ yếu phụ thuộc vào các chuyên gia Liên Xô. Còn lần này, tôi mang trên vai trách nhiệm của người đứng đầu nên rất áp lực. Nếu không thành công, có thể phát sinh nhiều vấn đề, nhất là giữ uy tín cho đội ngũ khoa học hạt nhân Việt Nam trước các nước. Trong phòng điều khiển lúc đó cũng có sự hiện diện của các chuyên gia Nga, Mỹ và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế, nhưng họ chỉ đứng ở vai trò quan sát.
Vì thế, khi lò đạt tới hạn - thể hiện qua đồ thị công suất lò từ nhấp nhô chuyển thành một đường thẳng kéo dài, tôi như trút được gánh nặng. Chúng tôi bắt tay chúc mừng và cảm ơn nhau vì đã cùng hợp tác thành công.
Sự kiện tái khởi động lò hạt nhân lần đầu được thực hiện bởi đội ngũ nhà khoa học Việt Nam cũng được bình chọn là một trong 10 sự kiện khoa học công nghệ tiêu biểu năm 2011.
PGS.TS Nguyễn Nhị Điền giới thiệu lịch sử Viện với Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng trong chuyến làm việc của Bộ trưởng tại đây, tháng 8/2025. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân
Từ làm chủ tới tự chủ công nghệ
- Đây cũng là lần đầu tiên trên thế giới, việc chuyển trả nhiên liệu từ các lò hạt nhân của Nga được thực hiện bằng đường hàng không. Viện thực hiện thế nào?
- Theo kinh nghiệm các nước dùng nhiên liệu của Liên Xô trước đó, việc chuyển trả được thực hiện bằng đường sắt, đường bộ và đường biển. Tuy nhiên, với khoảng cách địa lý xa xôi như Việt Nam, các phương tiện này không khả thi, vì thời gian vận chuyển quá dài, nhiều bất lợi.
Các chuyên gia quốc tế thống nhất chọn Việt Nam là nước thí điểm chuyển trả nhiên liệu đã sử dụng bằng hàng không. Sân bay quân sự Biên Hòa được chọn do đáp ứng yêu cầu về khả năng chịu tải, độ dài đường băng và đảm bảo an ninh.
Dưới sự chủ trì của Bộ Khoa học và Công nghệ, chúng tôi nhận được sự hỗ trợ rất lớn khi làm việc với nhiều bộ ngành khác. Chẳng hạn, xe vận chuyển nhiên liệu từ Đà Lạt xuống sân bay được quân đội bố trí và cảnh sát hộ tống. Bộ Tài chính cho phép không mở kiểm đếm nhiên liệu ở sân bay, miễn lệ phí hải quan. Sân bay Biên Hòa là sân bay quân sự nhưng vẫn được tạo điều kiện hết mức.
5h sáng ngày 3/7/2013, nhìn chiếc máy bay chở nhiên liệu khuất dần trong tiết trời còn mù sương của Đồng Nai, tôi dần thấy nhẹ lòng.
Đó là bước cuối cùng của dự án chuyển đổi nhiên liệu vùng lõi từ độ giàu cao sang độ giàu thấp, kéo dài 10 năm (2004-2013), thể hiện khả năng làm chủ công nghệ vận hành lò phản ứng hạt nhân của các nhà khoa học trong nước. Học kinh nghiệm từ Việt Nam, sau đó nhiều nước nhập khẩu nhiên liệu của Nga như Hungary, Romania... đã áp dụng cách thức vận chuyển này.
- Đây có phải dấu mốc cho quá trình làm chủ công nghệ lò phản ứng hạt nhân của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt?
- Không phải ngẫu nhiên chúng tôi có sự tự tin nhất định khi đảm đương dự án chuyển đổi nhiên liệu. Trước đó, đội ngũ chuyên gia của lò đã thử nghiệm, và dần làm chủ từng bước.
Năm 1985, ba chuyên gia Liên Xô cuối cùng về nước. Từ đó trở đi, chúng ta không mời thêm chuyên gia Liên Xô, sau này là Nga, sang nữa. Một phần do vấn đề kinh phí, một phần liên quan tới yếu tố chính trị.
Theo khuyến cáo của nhà cung cấp, công việc tổng kiểm tra đại tu cần được thực hiện định kỳ 10 năm sau khi đưa lò vào vận hành. Do đó, giai đoạn 1992 - 1995, chúng tôi tự thực hiện các bước. Trong đó, quan trọng nhất là thay đảo nhiên liệu lần thứ nhất, như bổ sung, đổi vị trí giữa các bó. Việc này cũng yêu cầu tính toán sao cho an toàn, không gây ra những sự cố như quá nhiệt làm vỏ nhiên liệu phồng rộp, phát tác mảnh vỡ phân hạch ra bể lò. Lần đầu, thời gian thay đảo là 10 năm, những lần sau rút ngắn dần xuống 2-4 năm do lượng Uranium-235 trong nhiên liệu đã giảm dần.
Để kiểm tra hiện tượng ăn mòn dưới đáy lò thường xuyên, vốn phát hiện từ giai đoạn thực hiện công trình khôi phục lò 1980-1984, Viện cũng tự chế tạo thiết bị telescope, thay vì phải mời chuyên gia như năm 1989. Trong giai đoạn sau đó, chúng tôi cũng tự nâng cấp một phần hệ điều khiển, và tới năm 2007, hoàn tất việc thay thế toàn bộ.
Hệ điều khiển Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sau khi nâng cấp. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân
Cải tạo, thay mới hoàn toàn hệ điều khiển của lò là dự án lớn, chúng ta lần đầu thực hiện. Giai đoạn cuối khi thử nghiệm vận hành, phát sinh tình huống bất thường.
Khi thử chế độ lên lò tự động, hệ điều khiển mới không thực hiện đúng chức năng như thiết kế. Công ty nước ngoài lắp đặt không khắc phục được, nên phải tạm dừng thử nghiệm, về nước trao đổi. Điều đó đồng nghĩa với việc Lò Đà Lạt phải kéo dài thêm nhiều tháng không được vận hành, ảnh hưởng tới cung cấp đồng vị phóng xạ cho các bệnh viện. Chuyên gia của Viện đề xuất lắp bo mạch bổ sung để thực hiện chức năng điều khiển duy trì công suất.
Một Hội đồng do Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân được lập ra để đánh giá an toàn, xem xét việc cho phép lắp thiết bị. Chúng tôi phải giải trình nhiều câu hỏi, vấn đề của Hội đồng, cuối cùng được chấp nhận. Kết quả là bo mạch bổ sung giúp duy trì vận hành lò an toàn, không làm gián đoạn nguồn cung dược chất phóng xạ.
- Nghị quyết 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đặt mục tiêu tự chủ trong toàn ngành năng lượng. Theo ông, Việt Nam cần làm gì để tự chủ trong lĩnh vực hạt nhân?
- Thực tế, chúng ta chỉ mới dừng ở việc làm chủ, mà cũng mới làm chủ công nghệ vận hành lò và thiết kế, chế tạo một số thiết bị không quá phức tạp. Làm chủ là hiểu biết tường tận lò và các hệ thống công nghệ hoạt động thế nào, vận hành an toàn ra sao, biết bảo dưỡng, sửa chữa, xử lý các vấn đề liên quan.
Tự chủ thì phải đầu tư, nghiên cứu, phải nắm được công nghệ. Muốn nắm công nghệ phải có nước nào đó chuyển giao hoặc cùng phát triển, nên mới cần hợp tác quốc tế. Hiện trên thế giới, số nước có công nghệ nguồn về điện hạt nhân không nhiều như Nga, Mỹ, Pháp, Canada,... còn hầu hết là chuyển giao.
Từ những năm 1978-1979, lúc tôi mới về làm việc tại Viện đã nghe thông tin phát triển điện hạt nhân, mục tiêu là năm 2000 đưa nhà máy đi vào hoạt động. Nhưng do hoàn cảnh đất nước lúc đó kinh tế khó khăn, bao cấp, rồi chiến tranh biên giới nên đành chấp nhận lùi lại tới năm 2020, sau đó là 2028. Nhưng năm 2016, Nghị quyết của Quốc hội đã dừng đầu tư dự án xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận.
Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia cùng những chủ trương gần đây của Đảng và Nhà nước cho thấy cách tiếp cận rất quyết liệt. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cần quan tâm, như đào tạo nguồn nhân lực, bài toán kinh phí đầu tư. Một tổ máy trước khoảng 5-7 tỷ USD, bây giờ có thể tới 9-10 tỷ USD.
Quan trọng hơn, muốn phát triển điện hạt nhân, cần có tầm nhìn ổn định trong vòng 100 năm. Đây không phải là vấn đề của riêng Việt Nam mà là bài học rút ra từ nhiều nước nhập khẩu điện hạt nhân. 10 năm trước, trong chuyến thăm một nước Đông Âu, tôi tới xem một nhà máy điện hạt nhân đang xây dở, rồi phải dừng lại do thay đổi quyết sách. Thực sự nhìn rất tiếc.
Từ lò hạt nhân do Mỹ xây dựng rồi bỏ lại năm 1975, GS.TS Phạm Duy Hiển cùng đồng nghiệp thành công tái khởi động Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt bằng lõi...
Nguồn: [Link nguồn]
-27/09/2025 06:00 AM (GMT+7)