Từ 1.3.2015, thay đổi mã vùng điện thoại cố định
Từ ngày 1.3, mã vùng điện thoại cố định của TP Hà Nội đổi từ 4 sang 24, TPHCM đổi từ 8 thành 28.
Đây là một trong những nội dung quy định tại thông tư về quy hoạch kho số viễn thông có hiệu lực từ ngày 1.3.2015 của Bộ TT&TT. Sau khi thông tư có hiệu lực, Quy hoạch đánh số điện thoại quốc gia từ năm 2006 sẽ được thay đổi.
Quy hoạch mã vùng điện thoại mới sẽ nằm trong dải mã từ 200 đến 299 (Ảnh minh họa)
Quy hoạch mã vùng điện thoại mới sẽ nằm trong dải mã từ 200 đến 299. Chỉ có TP Hà Nội và TPHCM có mã vùng gồm hai chữ số. Mã vùng điện thoại cố định của TP Hà Nội đổi từ 4 sang 24, TPHCM đổi từ 8 thành 28. Một số mã vùng chưa được sử dụng ngay sẽ được dùng dự phòng, ví dụ như 200, 201, 202, ...
Có 4 địa phương vẫn được giữ nguyên mã vùng điện thoại cố định, không đổi là Phú Thọ (210), Vĩnh Phúc (211), Hòa Bình (218) và Hà Giang (219).
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác sẽ có mã vùng điện thoại mới gồm ba chữ số. Ví dụ như TP Đà Nẵng đổi từ 511 thành 236; TP Hải Phòng đổi từ 31 thành 225; TP Cần Thơ đổi từ 710 thành 292; Thừa Thiên – Huế từ 54 thành 234; Quảng Ninh từ 33 thành 203; Nghệ An từ 38 thành 238; Hà Tĩnh từ 39 thành 239; Thanh Hóa từ 37 thành 237; Thái Nguyên từ 280 thành 208; ...
Theo quy hoạch, số thuê bao mạng viễn thông cố định mặt đất có độ dài 7, 8 chữ số; Số thuê bao mạng viễn thông cố định vệ tinh có độ dài 7 chữ số; Số thuê bao mạng viễn thông di động mặt đất sử dụng cho thuê bao viễn thông là người có độ dài 7 chữ số.
Số dịch vụ khẩn cấp vẫn gồm 3 chữ số, cụ thể: 112 là số dịch vụ gọi tìm kiếm, cứu nạn; 113 là số dịch vụ gọi Công an; 114 là số dịch vụ gọi Cứu hỏa; 115 là số dịch vụ gọi Cấp cứu y tế.
Bộ TT&TT giao Cục Viễn thông thực hiện việc quản lý, phân bổ, thu hồi mã, số viễn thông theo đúng Quy hoạch mới và Quy định về quản lý và sử dụng kho số viễn thông. Hàng năm công bố công khai việc phân bổ và sử dụng mã, số viễn thông.
Tổ chức, cá nhân được phân bổ hoặc cấp số dịch vụ, số thuê bao viễn thông có trách nhiệm khai thác, sử dụng các số dịch vụ, số thuê bao viễn thông được phân bổ đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả. Khi không còn nhu cầu sử dụng số dịch vụ, số thuê bao viễn thông phải hoàn trả cho cơ quan quản lý kho số viễn thông hoặc doanh nghiệp viễn thông đã phân bổ hoặc cấp.
Theo Vinh Hải ([Tên nguồn])