Lời sám hối của một tử tù (Kỳ 1)
Tôi quỳ xuống ôm lấy mẹ và khóc, tôi cũng cảm nhận được đôi vai gầy của mẹ tôi cũng đang run lên.
Ngẩng đầu lên tôi thấy mẹ tôi định nói câu gì đó thì bố tôi đã kịp ngăn lại. Bố tôi bảo: Con cứ yên tâm cải tạo cho tốt, cha mẹ và anh chị ở nhà đều khỏe cả con đừng bận tâm. Nghe câu nói của cha tôi mà tôi cảm thấy thật là đắng lòng.
Tôi là Đặng Văn Thế, sinh ngày 22/07/1975. Năm mà trước ngày tôi chào đời hai tháng, quân và dân ta đã thẳng tiến về Dinh Độc Lập đê bắt sống Dương Văn Minh để hai miền Nam Bắc được thống nhất thành một dải.
Sinh tôi ra đúng vào tháng 5 lịch sử đó, bố mẹ tôi nghĩ rằng tôi sẽ làm được một việc gì đó, có ích cho gia đình và xã hội. Nhưng thật là đắng cay và đau xót, vì chẳng những tôi không làm được việc gì có ích cho xã hội mà tôi lại là kẻ tội đồ của gia đình và xã hội - khi tôi đang tâm gieo rắc cái chết trắng cho mọi người.
Sự việc bắt đầu từ ngày 15/08/1997, sau khi cưới vợ được 40 ngày, tôi đã theo một ngưòi đi vận chuyển ma túy. Sau 3 chuyến trót lọt lời được 18 triệu đồng tôi cứ tưởng mình sẽ nhanh chóng làm giàu nhờ gieo cái chết trắng.
Nhưng sự đời có ai học được chữ ngờ, và tôi không tránh khỏi lưới trời lồng lộng. Ngày 15/08/1997 trên đường vận chuyển 20 kg thuốc phiện đi tiêu thụ, chúng tôi đã bị bắt quả tang. Trước cơ quan điều tra dù đã đủ bằng chứng buộc tội nhưng tôi vẫn cố biện minh cho tội lỗi của mình.
Nhưng cổ nhân đã nói: gieo gió thì ắt gặp bão, và đến ngày 23/06/1998 tôi đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An tuyên phạt Tử hình! Bản án thích đáng dành cho những kẻ hám lời mà gieo rắc bất hạnh cho nhân loại.
Những ngày chờ chết
Sau khi bị tuyên án, tôi được áp giải về phòng biệt giam của trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Trước khi bị áp giải ra xe thùng, tôi còn cố quay đầu lại đưa cặp mắt đầy tuyệt vọng tìm kiếm người thân và gia đình của mình.
Và thật là đau đớn, xót xa khi tôi đã kịp chứng kiến một hình ảnh mà cho đến khi viết những dòng chữ này tôi vẫn không sao quên được, đó là mẹ già 70 tuổi và người vợ trẻ của tôi đã bất tỉnh nhân sự khi tòa tuyên án.
Tại phòng biệt giam trước khi tôi được dẫn giải về, đã có hai phạm nhân chuẩn bị “chỗ ăn, chỗ nằm” cho tôi. Một cán bộ quản giáo đã nói đùa với tôi rằng, căn phòng này là chỗ “tạm trú dài hạn” cho anh.
Khác với phòng dành cho thường án, phòng dành cho tử tù có diện tích rất nhỏ, chỉ khoảng 2m2, trong đó gồm chỗ nằm, “xa lộ”, bồn vệ sinh, bể nước sinh hoạt. Tài sản duy nhất và có giá trị nhất là “chiếc cùm sắt” dùng để cùm chân tử tù.
Tôi vẫn nhớ hàng xóm của tôi lúc đó có 5 người, tất cả đều phạm tội gieo rắc cái chết trắng. Căn nhà mà chúng tôi ở được gọi là “chung cư hộp diêm”, những hàng xóm của tôi sau khi hết “hạn tạm trú” đã phải ra pháp trường đền tội cho pháp luật.
Cán bộ quản giáo tôi lúc đó là ông Nguyễn Văn Mùi, người đã một lần bế thốc tôi chạy ba chân bốn cẳng lên trạm xá trại để cấp cứu. Ở khu hộp diêm 3 tháng tôi được Ban giám thị cho chuyển đến nhà giam B2.
Người quản giáo tôi ở đây là ông Lê Văn Tài, hàng ngày tôi được cán bộ mở cùm 15 phút để tập thể dục và vệ sinh cá nhân.
Thời gian còn lại tôi luôn phải ở trong cùm nằm nghe đài và sám hối lương tâm, hôm nào rảnh thì ông Tài vào chơi cờ tướng và đánh bài với tôi, còn Ban giám thị thì hàng tuần thay nhau vào động viên thăm hỏi tôi, đặc biệt là ông Hoàng Tuấn Tú giám thị trưởng.
Biết được tôi sống nặng nề về tình cảm, nên thường xuyên vào trò chuyện với tôi rất chân tình. Đối với kẻ lầm đường lạc lối như tôi, ông ấy chẳng khác nào một người cha, ông ấy là chỗ dựa tinh thần rất lớn để tôi chia sẻ mọi vui buồn trong những ngày tháng nằm chờ quyết định cuối cùng của Chú tịch nước.
Ông là một giám thị trưởng nhưng không hề phân biệt đối xử hay kỳ thị với tôi. Quả thật thời gian đầu tôi đã không tin tình cảm của ông ấy dành cho tôi là sự thật. Vì tôi là kẻ có tội lớn với pháp luật, giống nòi nhưng rồi cùng vối thời gian, tình cảm mà ông và cán bộ ở đó dành cho tôi là có thật. Một thứ tình cảm rất nhân vân và rất con người!.
Ông thường bảo với tôi rằng: Anh có tội với pháp luật thì phải chịu tội, chúng tôi chỉ là những người canh ‘“kho” cho pháp luật mà thôi, chúng tôi xem các anh như những “đứa con” lạc lối, giúp cho các anh được cái gì mà lương tâm cho phép, lại không vi phạm pháp luật thì chúng tôi sẽ làm.
Từ những tình cảm ân tình đó mà tôi đã dần thay đối cách nghĩ và cách nhìn đối với họ. Tôi đã dành cho ông sự kính trọng và hàm ơn rất lớn. Tôi còn nhớ vào một chiều thu trời mưa rất lớn vì nhớ bố mẹ già ở quê, nhớ ngưòi vợ trẻ vừa mới cưới được 40 ngày nên tôi đã gào thét và khóc lóc.
Sau khi nhận được tin của quản giáo, ông đã đội mưa vào buồng giam để động viên tôi. Ông bảo nếu thương bố mẹ thì hãy chấp hành thật tốt để mong sự khai ân của Chủ tịch nước, anh mới có ngày được tạ tội với mẹ cha và gia đình.
Từ câu nói hết sức chân tình và đầy lòng nhân ái đó, mà tôi kìm nén được nỗi đau và sự bi quan của mình, và đêm đó tôi đã làm một bài thơ tự sự rằng:
Chiều thu Ban Tú vào thăm Thế
Ban bảo mai này chắc được tha
Đừng có bi quan mà làm bậy
Kẻo rồi ân hận đấy “con à”.
Sau buổi chiều thu đó, cho đến trước ngày 15/07/2000, tôi luôn 'Vui vẻ” giữa xà lim để chờ quyết định cuối cùng của pháp luật. Tôi đã tự nhủ với lòng mình là sẽ không làm phiền ông thêm một lần nào nữa. Nhưng rất tiếc là tôi đã không làm được điều ấy, bởi một sự việc quá bất ngờ đã đến với tôi.
Thật tình mà nói, tôi biết sớm muộn gì rồi việc đó cũng đến với tôi, đến với một kẻ trọng tội nhưng tôi không nghĩ lại đến sớm như vậy. Vì thời điểm đó tôi vẫn chưa có quvết định cuối cùng của Chủ tịch nước.
Đó là vào ngày 15/07/2000, ngày mà chắc chắn suốt đời này tôi sẽ không bao giờ quên được. Vì ngày hôm đó được xem như ngày tôi phải nhận thêm một bản án tử hình khác - án tử hình dành cho con tim.
Sáng hôm đó trời mưa rất lớn, cơm mưa như trút nước từ đâu đổ về làm tràn ngập cả con đường từ nhà giam ra phòng tiếp dân của trại, cho dù hôm đó đang là mùa hè. Sau khi tạnh mưa tôi được cán bộ quản giáo thông báo ra gặp gia đình.
Mặc bộ quần áo được vợ may cho ngày cưới khấp khởi vui mừng đi theo cán bộ trực trại. Trên đường đi tâm trạng tôi lại càng vui hơn khi được cán bộ cho biết là được gặp vợ. Khuôn mặt tôi lúc đó rạng ngời chẳng khác gì “cây khô gặp nước”.
Tôi được cán bộ dẫn vào phòng gặp số 2 mà vợ tôi đã đứng ở đó chờ từ trước. Có một điều trùng hợp là hôm đó vợ tôi cũng mặc bộ đồ mà chính tôi đã may cho cô ấy hôm cưới.
Sau khi hỏi thăm sức khỏe và tình hình của tôi, trên đôi gò má cô ấy dòng lệ bắt đầu tuôn trào, thú thực lúc ấy tôi nghĩ cô ấy khóc vì thương tôi, vì lo cho cuộc sống của tôi đang phải đếm từng ngày.
Nhưng thật là cay đắng cho tôi, vì những giọt nước mắt đó là “khúc dạo đầu” cho “Bản án tử hình” mà cô ấy đã tuyên cho tôi. Những gì tiếp theo sau đó chắc bạn đọc cũng đã hiểu. Sau vài phút choáng váng tôi đã trấn tĩnh lại để ký vào “Bản án tử hình” mà cô ấy dành cho tôi.
Trên đường từ nhà thăm gặp vào, tâm trạng tôi thật là nặng nề, xách túi quà trên tay tôi có cảm giác như mình đang xách một thứ gì đó rất nặng. Hôm đó khác với những lần thăm gặp trước, tôi không mở túi quà ra để chia sẻ cho các tử tội khác mà chỉ mời họ một điếu thuốc rồi vào xiềng nằm.
Trong tôi luôn có cảm giác thật khó tả, tôi vui vì đã mang đến tự do cho vợ, và cũng rất buồn vì tôi đã đánh mất đi chỗ dựa và nguồn động viên lớn lao của mình.
Tối hôm đó tôi nghĩ đến cảm giác cô đơn gặm nhấm tâm hồn tôi trong những ngày còn lại của kẻ tử tội, nên tôi đã ném tung gói quà mà cô ấy gửi cho tôi, sau này tôi đã viết mấy câu thơ về cô ấy rằng:
Em ra đi khi bình minh tắt nắng
Bỏ lại tôi một bóng tối hoàng hôn
Lệ tuôn rơi nhưng sao không khóc nổi
Bởi giờ đây em là vợ người ta
Em đã quay lưng từ hôm đó
Mười lăm tháng bảy năm hai ngàn
Bỏ tôi tiếp tục nai lưng gánh
Nỗi khổ tội tình thật đắng cay
Và một ánh sáng “le lói cuối đường hầm” đã đến với tôi, đó là vào một ngày thu nắng đẹp, tôi được đọc tờ công văn hoãn thi hành án tử hình cho tôi do cơ quan điều tra soạn thảo.
Và một sự kiện lớn cũng làm cho tôi cảm thấy hy vọng hơn là văn bản hướng dẫn Luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 1999 được đưa lên thông tin đại chúng.
Thế nhưng niềm vui lớn ấy chẳng tày gang, sau khi luật mới được ban hành, phần lớn tử tù được Chủ tịch nước Trần Đức Lương tha tội chết cho.
Duy chỉ còn mình tôi là “án binh” bất động, lúc đó dù niềm tin vẫn đang giữ nguyên nhưng thú thật là trong tôi cảm thấy rất buồn và rồi nỗi buồn của tôi cũng chuvển sang thất vọng khi một năm, hai năm, rồi ba năm vẫn không thấy chim én mang “mùa xuân” đến với mình trong khi một số tử tù khác vẫn được Chủ tịch nước khai ân.
Thường thì “cuộc đời” của một tử tù chỉ bằng tuổi thọ của chú Bạch tuộc thiên tài ở Viện Hải dương học của Đức. Nhưng tôi đã “trường thọ” đến gấp ba lần mà vẫn chưa cảm nhận được “hơi ấm của mùa xuân”.
Những đêm dài mất ngủ
Cho đến cuốỉ năm 2003 và năm 2004, tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng cho bản án của mình. Tôi đã không còn dám ngủ vào ban đêm nữa, ngoại trừ thứ 7 và chủ nhật là tôi ngủ vào ban đêm, còn lại các ngày khác trong tuần thì tuyệt nhiên không dám ngủ.
Giấc ngủ chỉ đến với tôi khi tiếng gà gáy sáng của mấy nhà dân gần trại cất lên. Chuyện không dám ngủ vào ban đêm chẳng phải riêng gì tôi mà đối với tất cả tử tù.
Khi đã hết hạn “tạm trú” rồi thì tuyệt nhiên không một tử tù nào dám ngủ vào ban đêm nữa. Không biết có phải thức để xua đuổi thần chết hay không? Nhưng đêm nào cũng thức thâu đêm. Việc thức đêm vối thời gian dài đã làm cho đôi tai của tôi thính hơn thì phải?
Giữa đêm khuya thanh vắng bất cứ một âm thanh gì tôi cũng nghe được. Âm thanh tôi sợ nhất là tiếng gót giày của cán bộ. Đêm nào có tiếng 2 đôi giầy trở lên tiến vào phòng là tôi cảm thấy vô cùng hoảng sợ.
Tôi còn nhớ vào một đêm mưa, tôi đang nằm nghe tiếng rả rích của những chú côn trùng thì bỗng có ba bốn tiếng gót giày tiến đến phòng tôi. Đang nằm, tôi đã bật dậy như một chiếc lò xo và nín thở lắng nghe tình hình.
Bỗng có tiếng chìa khóa kêu leng keng và cánh cửa sắt phía ngoài phòng giam tôi bật mở. Lúc đó tôi thoáng nghĩ "thời khắc” của tôi đã điểm, tôi chưa kịp nói câu gì thì cán bộ Sang ngó đầu vào hỏi, tròi mưa có ngủ được không Thế? Buồng giam có bị dột không? Nếu dột thì lấy áo mưa của cán bộ trải lên màn cho đỡ ướt, tranh thủ ngủ đi một lúc, trời sắp sáng rồi.
Với tay cầm tấm ni lon từ tay cán bộ Sang nói lời cảm ơn, bỗng đôi mắt thâm quầng của tôi trào dâng hai hàng nước mắt. Tôi khóc không phải vì tôi chưa phải đền tội, mà khóc vì quá xúc động, bởi tình cảm và sự quan tâm mà cán bộ đã dành cho tôi.
Đêm hôm đó, có lẽ là lần đầu tiên tôi khóc nhiều nhất từ ngày tôi bị tuyên án tử hình.
Thời gian vẫn chậm trôi, dòng đời vẫn từ từ chảy nhưng đối với tôi vẫn vậy, vẫn âm thầm khắc khoải đợi “mùa xuân”. Sau nỗi đau “mất mạng” và nỗi đau “mất vợ’ tôi lại tiếp tục gặm nhấm một nỗi đau khác, đó là vào một buổi chiều cuối xuân được cán bộ cho ra ngoài tập thể dục, tôi tình cờ phát hiện ra ông anh cả của mình đang đứng sau một nhà giam khác.
Việc phải chứng kiến người thân của mình ở cùng cảnh trong trại giam là điều không một phạm nhân nào mong muốn. Đối với tôi điều đó lại càng chua xót hơn, vì tôi là một tử tù! Nhưng chưa dừng ở đó, sau vài lời thăm hỏi tôi được người anh cả của mình cho biết là anh Hướng (anh trai tôi ở quê) đã mất vào ngàỹ 30/08 âm lịch năm 2003.
Lúc đó tôi vô cùng đau xót khi mà một lúc phải chứng kiến hai sự việc như vậy. Tối hôm đó khi bưng bát cơm lên chưa kịp ăn một thìa nào thì một lần nữa nước mắt tôi lại tuôn trào. Tôi khóc vi ân hận cho việc làm tội lỗi của mình, vì thương cho bố mẹ tôi.
Chỉ vì suy nghĩ nông cạn của anh em tôi mà bố mẹ tôi đã gần như mất một lúc ba núm ruột của mình, ba đứa con mà mẹ tôi đã phải mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày và bố mẹ tôi phải tần tảo vất vả để nuôi chúng tôi khôn lớn.
Sáng hôm sau, khi mở cửa buồng giam, phát hiện tôi có tâm trạng khác thường, ông Hồ Sỹ Biên cán bộ quản giáo đã vào buồng giam trò chuyện và tâm sự cùng tôi. Sau khi hiểu được tâm trạng của tôi, ông ấy đã nói với tôi rằng:
Trong cuộc sống chẳng ai tránh được điều đó, ngay như chúng tôi cũng vậy. Điều quan trọng là mỗi người phải biết vượt qua nỗi đau đó, để nhìn cuộc sống tươi đẹp hơn, vì sự sầu não chỉ làm cho ta đau khổ hơn mà thôi.
Chỉ có giữ vững được niềm tin, vượt qua được nỗi đau Thế mới có cơ hội được tạ tội với gia đình và đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ.
Gạt những giọt nước mắt đang lăn trên gò má, tôi cảm ơn sự động viên chia sẻ và sự quan tâm của cán bộ dành cho tôi. Tôi nói rằng, cháu cám ơn tình cảm mà ông dành cho cháu. Cháu hứa là sẽ cố gắng vượt qua nỗi đau này.
Chiều hôm đó có lẽ đã được cấp dưới báo cáo nên ông Hoàng Tuấn Tú đã vào thăm tôi. cầm trên tay một túi quà và một tờ báo ông ấy bảo:
Hôm nay trại làm cơm mời khách, Ban bảo nhà bếp cất cho anh một ít thức ăn, định chiều bảo cán bộ Sang mang vào cho anh nhưng trưa nay nghe cán bộ Biên báo cáo là anh gặp chuyện buồn về gia đình, nên tiện thể Ban cầm vào luôn.
Để túi quà lên bục nằm đối diện, ông gửi tờ báo “Gia đình và xã hội” ra bảo với tôi: Ban đã nghe cán bộ Biên kế hết chuyện rồi, anh chỉ cần đọc hết bài báo này là biết Ban muốn nói gì với anh. .Ban chỉ nói thêm với anh rằng: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.
Ông ấy ra về, tôi dở tờ báo ra và đọc, sau khi đọc hết bài báo tôi đã hiểu ông ấy muốn nói gì với tôi, vì trong bài báo có bài “Những người biết vượt qua số phận”.
Có được sự động viên chia sẻ của Ban giám thị và cán bộ quản giáo tôi dần vơi bớt nỗi đau và gần một tuần sau tôi được ra gặp gia đình.
Người đến thăm tôi hôm đó là bố mẹ tôi, được gặp bố mẹ là điều rất mong muốn của tôi, vì đã khá lâu rồi tôi không được gặp. Nhưng thật sự là tôi vô cùng xót xa và nhói đau trong tim khi nhìn thấy bố mẹ tồi đã già yếu đi rất nhiều.
Ngắm nhìn khuôn mặt nhăn nheo của mẹ, mái đầu bạc trắng của cha mà lòng tôi như có muối xát. Tôi không nghĩ bố mẹ tôi lại già đi nhanh đến vậy. Lau dòng nước mắt đang lăn dài trên khuôn mặt nhăn nheo già nua, mẹ tôi bảo:
Cha mẹ định rằm tháng 5 âm lịch mới xuống thăm con, để mang cho con ít xôi, nhưng hôm qua nhận được thư từ trại gửi về nghĩ là con gặp chuyện gì nên cha mẹ đi luôn. Mẹ chẳng có quà gì cho con cả, chỉ có nải chuối và đùm vừng lạc thôi, họ hàng làng xóm có góp cho con 120.000đ, ở nhà mùa chưa gặt nên mẹ không có tiền cho con mô.
Tôi quỳ xuống ôm lấy mẹ và khóc, tôi cũng cảm nhận được đôi vai gầy của mẹ tôi cũng đang run lên. Ngẩng đầu lên tôi thấy mẹ tôi định nói câu gì đó thì bố tôi đã kịp ngăn lại.
Bố tôi bảo: Con cứ yên tâm cải tạo cho tốt, cha mẹ và anh chị ở nhà đều khỏe cả con đừng bận tâm. Nghe câu nói của cha tôi mà tôi cảm thấy thật là đắng lòng.
Sau nỗi đau mất người thân, tôi đã rơi vào trạng thái trầm cảm. Hàng ngày tôi chỉ lủi thủi trong căn phòng quen thuộc của mình như một cái bóng, con người tôi lúc đó chỉ còn là một cái xác không hồn.
Hiểu được nỗi buồn và sự cô quạnh của tôi ông Lê Văn Tài đã mua cho tôi mấy con chim chào mào và một con chim cà cưỡng, ông bảo: chơi chim thì '‘dưỡng tâm”, chơi cá thì “dưỡng trí”, Thế cố gắng chăm sóc mấy con chim cho khuây khỏa, nó hót hay lắm đấy.
(Còn nữa)