Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay

Khổng Minh là nhà chính trị nhà quân sự kiệt xuất của Trung Quốc trong thời Tam Quốc. Ông thấu hiểu trời đất, dụng binh như thần. Không những thế trong cuộc đời của mình,ông còn sáng chế ra vũ khí và vật dụng. Một số trong đó còn được sử dụng tới bây giờ.

Video: Khổng Minh dùng trâu máy ngựa gỗ cướp 30 vạn lương thảo của Tư Mã Ý.

Bát Trận Đồ được xem là thế trận kinh điển do Gia Cát Lượng phát minh ra mà đến nay vẫn chưa ai phá nổi. Trong Tam quốc diễn nghĩa có cốt truyện Lưu Bị vì nóng lòng trả thù cho Quan Vân Trường mà bị đại tướng quân Đông Ngô là Lục Tốn đánh bại và ráo riết truy đuổi.

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 1

Đến nay, Bát Trận Đồ của Gia Cát Lượng vẫn còn ẩn chứa khá nhiều bí ẩn không lời giải đáp.

Khi gần đến bến Ngư Phúc, Lục Tốn thấy phía trước có một luồng sát khí xông thẳng lên trời, càng về chiều, sát khí càng nhiều, Lục Tốn do dự, sai người thân tín đi xem xét kỹ, kết quả là bên bờ sông có xếp các đống đá lớn, không một bóng người. Lục Tốn càng nghi, cho gọi thổ dân đến hỏi, thổ dân thưa: “Nơi này gọi là bến Ngư Phúc. Gia Cát Lượng khi vào Thục đã luyện binh ở đây, lấy đá xếp thành trận thế trên bến sông. Từ đó trở đi thường có khí tuôn như mây”. Lục Tốn nghe xong cưỡi ngựa lên sườn núi xem thạch trận, thấy đá xếp bốn phương tám hướng, đều có cổng, có cửa, bèn cười nói: “Đây là tà thuật làm mê hoặc người, có ích gì đâu”, rồi xuống núi dẫn quân xông thẳng vào trong trận xem xét. Nào ngờ Lục Tốn xông vào trận xong thì không tìm được lối ra, đại quân nước Ngô hoàn toàn bị nhốt vào trận đồ mà không thoát ra được. Sau đó may có nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn đã chỉ đường nên Lục Tốn mới thoát ra được.

Bát trận đồ căn cứ theo bát quái (8 quẻ) Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khảm, Đoài mà bày thành 8 trận chính: Thiên phúc, Địa tải, Long phi, Xà bàn, Hổ dực, Điểu tường, Phong tán, Vân thùy. Được án theo bát môn (8 cửa) là sinh, thương, đỗ, cảnh, tử, kinh, khai, hưu.

Trong trận lấy 5 người làm 1 ngũ (ngũ hành), 55 người thành 1 đội (55 là số sinh thành của trời đất, trời 25, đất 30), 8 đội thành 1 trận (440 người), 8 trận thành 1 bộ (3.520 người) là trận tiểu thành. 8 bộ thành 1 tướng (28.160 người) là trận trung thành. 8 tướng là 1 quân (225.280 người) là trận đại thành. Từ bát quái sinh ra trùng quái (64 quẻ), lấy 8 làm cơ sở mà nhân lên, càng đông người thì trận càng lợi hại.

Trâu máy, ngựa gỗ

Ngựa gỗ, trâu máy được Gia Cát Lượng nghĩ ra khi đến Kỳ Sơn phạt Ngụy. Vì tình thế khó khăn nên ông phải tính kế lâu dài đánh quân Ngụy. Thời điểm đó là mùa mưa khiến cho việc vận chuyển lương thực khá khó khăn. Do đó, Khổng Minh bèn sáng tạo ra ngựa gỗ, trâu máy để giải quyết việc vận chuyển.

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 2

Ngựa gỗ, trâu máy được Gia Cát Lượng nghĩ ra khi đến Kỳ Sơn phạt Ngụy.

Ngựa gỗ có cơ cấu máy móc ở bên trong, ngựa gỗ tự đi khoảng 10km mà không cần lực đẩy, cứ hết 10km lại cài lại cơ cấu bên trong để chạy tiếp.

Chiến xa

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 3

Chiến xa giúp công phá thành địch.

Để công phá cổng thành địch, Gia Cát Lượng đã chế tạo ra chiến xa, sau đó bộ binh sẽ đi theo tràn vào thành địch.

Nỏ Gia Cát

Để đối phó với quân Ngụy của Tào Tháo, Gia Cát Lượng đã cải tiến nỏ nguyên nhung thành Nỏ Gia Cát. Loại nỏ này được làm bằng sắt, dài 8 tấc, mỗi lần bắn ra được 10 mũi tên. Trong thời Tam Quốc, nỏ này có tên gọi khác là Thôi Sơn hay Liên Châu, nỏ sở hữu uy lực mạnh mẽ và được xem là vũ khí tầm xa đáng sợ nhất lúc bấy giờ.

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 4

Nỏ này là loại nỏ mà Gia Cát Lượng đã cải tiến.

Năm 1964 các nhà khảo cổ học đã khai quật được ở xã Thái Bình gần Thành Đô máy nỏ bằng đồng ghi lại được làm vào ngày 30 tháng 2 năm Cảnh Diệu thứ 4 thời hậu chủ Lưu Thiện (tức hai mươi bảy năm sau ngày Gia Cát Lượng mất). Nỏ này là loại nỏ mà Gia Cát Lượng đã cải tiến.

Ngoài ra, Khổng Minh Gia Cát Lượng còn có những phát minh khiến người sau nể phục như: Bánh bao, khóa Khổng Minh, chiến xa… Trong lịch sử Tam Quốc, Gia Cát Lượng được xem là người quân sư tài ba lỗi lạc nhất bên Lưu Bị.

Khổng Minh đăng (Đèn Khổng Minh)

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 5

Khổng Minh đăng được cho là phát minh khi Gia Cát Lượng bị vây hãm bởi quân đội nhà Ngụy của Tư Mã Ý ở Bình Dương.

Đây là một kiểu sơ khai của khinh khí cầu mà chúng ta đã biết được Gia Cát Lượng phát minh nhằm truyền tín hiệu quân sự. Nó được mang tên ông, gọi là đèn Khổng Minh (Khổng Minh đăng). Khổng Minh đăng được cho là phát minh khi Gia Cát Lượng bị vây hãm bởi quân đội nhà Ngụy của Tư Mã Ý ở Bình Dương. Lực lượng tiếp viện sau đó đã nhận được tín hiệu trên bọc giấy của đèn lồng và sau đó đã nhanh chóng đến tiếp viện cho Gia Cát Lượng. Cũng theo một số thông tin, do đèn lồng làm giống với hình chiếc mũ mà Gia Cát Lượng hay đội, nên nó đã được đặt theo tên của ông.

Bàn Cờ Khổng Minh

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 6

Cuộc sống trong quân đội xưa không chỉ có binh đao, luyện cung kiếm, trận pháp. Các danh tướng xưa cũng rất quan tâm đời sống tinh thần cho binh sĩ của họ. Thời Tam quốc cũng vậy, nếu như ta thường thấy Bắc Ngụy có trò tựa như đá bóng ngày nay, thì Gia Cát Lượng lại phát minh ra một loại cờ giúp quân sĩ giải trí, ngày nay gọi là bàn cờ Khổng Minh. Tương truyền đây là một trò chơi trí tuệ, tuy nhiên quy tắc lại khá đơn giản. Đến nay vẫn chưa rõ luật chơi của loại cờ này như thế nào.

Bánh bao

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 7

Nam Man Vương Mạnh Hoạch

Sau khi bảy lần dùng diệu kế bắt được Nam Man Vương Mạnh Hoạch và khiến Mạnh Hoạch tâm phục khẩu phục xong, Gia Cát Lượng bèn giao trả tất cả các đất đai đã thu được lại cho Mạnh Hoạch và các động chủ rồi về nước.

Bấy giờ đang giữa tháng chín, tiết thu mát mẻ, Mạnh Hoạch và các động chủ, tù trưởng lớn nhỏ đều đến tiễn đưa. Khi vừa tới sông Lô (tức là Lô Thủy), bỗng thấy mây đen mù mịt kéo đến, cuồng phong nổi lên dữ dội, binh mã không thể nào sang đò được. Khổng Minh bèn dừng lại hỏi, Mạnh Hoạch thưa:

– Sông này xưa nay thường bị “Xướng thần” tác oai gây họa, ai qua lại trên sông phải cúng tế mới yên.

Khổng Minh hỏi:

– Tế bằng vật gì?

Mạnh Hoạch đáp:

– Trước kia, mỗi khi Xướng thần nổi giận, dân trong nước dùng bảy bảy 49 cái đầu người, với trâu đen dê trắng đem cúng tế, thì tự nhiên sóng sẽ lặng êm.

Khổng Minh lắc đầu bảo:

– Chiến tranh vừa xong, tang tóc vô số, ta làm sao nỡ lòng giết hại thêm người nữa chứ?

Nói xong, bèn thân hành đến bờ sông Lô xem xét, quả thấy âm phong thổi mạnh, sóng nước tung cao, khí thế hung hãn, người ngựa đều sợ. Khổng Minh cho tìm thổ dân tới hỏi, thì họ bẩm:

– Từ ngày Thừa tướng đem binh qua sông, đêm đêm nơi đây cứ nghe tiếng ma gào quỷ khóc, ầm ỉ ghê rợn. Thỉnh thoảng trong đám mây mù, lại còn thấy lờ mờ hình dạng của binh ma tướng quỷ, vì vậy lúc sau này không ai dám qua sông.

Khổng Minh thở dài nói:

– Đây là tội lỗi của ta. Trong lúc giao tranh, quân ta và những người Man bị chết ở đây vô số kể, có lẽ vì oan hồn oán quỷ không được giải thoát nên họ mới tụ tập ở nơi đây để than khóc. Vậy tối nay ta phải đích thân ra cúng tế mới được.

Bọn thổ dân nói:

– Nếu tế, thì phải theo lệ cũ, phải giết 49 người, lấy đầu làm lễ vật, thì họa may các oan hồn mới tan đi.

Khổng Minh nói:

– Chỉ vì người chết uổng mà có oan hồn, ta lẽ nào lại giết oan thêm nữa? Ta đã có kế hay, các ngươi đừng sợ.

Nói xong, bèn truyền lệnh mổ trâu đen, dê trắng, sai nhào bột nặn thành 49 cái đầu người, nhét thịt trâu, thịt dê vào bên trong, gọi là “man đầu”, để thay thế cho đầu thật.

Canh ba đêm ấy, Gia Cát Lượng sai bày hương án nơi bờ sông Lô, đốt 49 ngọn đèn cầy, dựng cờ trắng chiêu hồn, bày lễ vật trên án, đặt 49 cái “man đầu” dưới đất, rồi đọc bài văn tế chiêu hồn các tướng sĩ chết trận. Lời văn thống thiết, bi ai, mọi người có mặt đều xúc động, lệ sa ròng ròng. Khổng Minh ngước mắt nhìn lên, thấy trong đám mây đen phảng phất có bóng hàng ngàn hồn ma, ông bèn truyền đem tất cả lễ vật đổ xuống sông.

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 8

Hôm sau, Khổng Minh dẫn đại quân ra bờ sông Lô, thì thấy trời quang mây tạnh, sóng lặng gió êm, quân binh qua sông yên ổn, người người vui mừng. Món bánh bao ra đời từ đó, rồi được biến chế cải cách qua nhiều triều đại. Sau này xuất hiện với nhiều dạng khác nhau, phổ cập nhất là loại bánh bao nhân thịt heo, có xen một ít lạp xưởng, trứng luộc, củ hành, và một vài gia vị khác.

Khóa Khổng Minh

Tam quốc diễn nghĩa: Những phát minh độc đáo của Khổng Minh vẫn còn dùng đến nay - 9

Khóa Khổng Minh, tương truyền xuất hiện trong khoảng từ cuối thời Xuân Thu cho tới thời Chiến Quốc do Lỗ Ban sáng chế ra. Trong thời Tam Quốc, được cho là do Gia Cát Lượng sáng chế. Khóa Khổng Minh thực chất là một món đồ chơi, do các thanh gỗ cài vào nhau, sau đó thách đố người khác tháo ra. Cài vào vốn dĩ đã khó, tháo ra lại càng là một vấn đề nan giải. Đến ngày nay, món đồ chơi trí tuệ này khá phổ biến tại Trung Quốc và một số nước châu Á.

Tam quốc diễn nghĩa: Vì sao Lưu Bị không chọn Trương Phi làm thị vệ?

Trương Phi - Quan Vũ - Lưu Bị tình thân như thủ túc, hiểu nhau tường tận và nguyện sống chết có nhau nhưng tại sao Lưu Bị...

Chia sẻ
Gửi góp ý
Theo Quốc Tiệp ([Tên nguồn])
Tam Quốc Xem thêm
Báo lỗi nội dung
GÓP Ý GIAO DIỆN